Việt Nam có nhiều sản phẩm ngày càng nổi tiếng và xuất khẩu nhiều ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, nhiều Doanh Nghiệp Việt Nam chủ yếu dành nhiều thời gian và chi phí cho việc săn lùng lợi nhuận, chứ ít quan tâm tới yếu tố quan trọng, đó là tên tuổi, là thương hiệu của mình. Họ chưa ý thức hết được giá trị to lớn của thương hiệu đã tác động tới thành công của DN như thế nào. Chỉ mỗi khi có sự tranh chấp xảy ra, họ mới hoảng hốt nhận ra thì đã quá muộn. Đã có rất nhiều thương hiệu việt nổi tiếng bị nước ngoài “đánh cắp”, nhưng chỉ có một số ít doanh nghiệp thành công trong việc đòi lại thương hiệu.
1. Võng xếp Duy Lợi thắng kiện doanh nhân Đài Loan tại Mỹ
Võng xếp Duy Lợi đã từng xuất một container hàng sang Mỹ vào tháng 9/2001, sau đó không thấy đơn hàng nào từ Mỹ nữa. Nhờ luật sư tra cứu trên mạng, ông Lợi phát hiện doanh nhân người Đài Loan Chung Sen Wu (cư trú tại Đài Loan) đã đăng ký bằng sáng chế ở Mỹ cho chiếc võng xếp có kiểu dáng y hệt võng xếp của Duy Lợi. Chính bằng sáng chế này đã khóa kín cánh cửa thị trường Mỹ với Duy Lợi và nhiều doanh nghiệp khác.
Đã từng thắng kiện trong vụ xâm phạm bằng sáng chế võng xếp tại Nhật vào tháng 4/2003 để từ đó Duy Lợi khai thông được thị trường Nhật, ông Lợi ủy quyền cho Văn phòng luật sư Phạm & Liên danh khởi kiện ra Cơ quan Sáng chế và Thương hiệu Mỹ (USPTO).
Kiểu dáng công nghiệp khung mắc võng của ông Lâm Tấn Lợi đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày 23/3/2000, trong khi ông Chung Sen Wu lại nộp đơn xin cấp bằng sáng chế độc quyền tại Mỹ vào ngày 15/8/2001. Từ tháng 5/2004, Văn phòng luật sư Phạm & Liên danh đã tiến hành các bước yêu cầu USPTO hủy hiệu lực bằng sáng chế Mỹ đã cấp cho Chung Sen Wu.
Luật sư Dương Tử Giang, người theo dõi vụ kiện thuộc Văn phòng luật sư Phạm & Liên danh, cho biết: “Chúng tôi đã phải tra cứu trong các cơ sở dữ liệu trên mạng Internet, nghiên cứu hàng nghìn kiểu khung võng khác nhau trên thế giới để tìm bằng chứng nhằm chứng minh kiểu khung võng do ông Chung Sen Wu đăng ký thực chất là sao chép lại khung võng Duy Lợi”.
Sau một đoạn đường gian nan chứng minh kiểu dáng võng xếp Duy Lợi bị đánh cắp, ngày 19/9, USPTO đã ra thông báo hủy bỏ văn bằng bảo hộ sáng chế của ông Chung Sen Wu.
2. Kẹo dừa Bến Tre thắng kiện tại Trung Quốc
Ban đầu, sản phẩm chủ yếu xuất sang thị trường Campuchia với nhãn hiệu Quê Hương. Công việc làm ăn đang thuận lợi thì bà liên tục nhận được phàn nàn từ các cửa hàng là kẹo dừa Quê Hương ăn càng lúc càng dở: không thơm, ít béo, ăn dính răng lại lẫn nhiều tạp chất. Kiểm tra quy trình, bà Hai đau đầu vì thấy không thể nào có chuyện kẹo làm ra lại dở. Thậm chí, bà con bốc ngẫu nhiên trong từng gói kẹo và trực tiếp ăn thử để xác định chất lượng nhưng vẫn không phát hiện ra vấn đề, kẹo vẫn ngon và thơm lựng mùi dừa, đậu phộng….
Lặn lội qua Campuchia, bà Hai tỏ phát hiện nhãn hiệu Quê Hương cứ 10 gói kẹo thì có tới… 9 gói là hàng nhái. Nhiều sản phẩm thậm chí được một số cơ sở nhỏ sản xuất kém chất lượng rồi bán giá rẻ nhưng vẫn đường hoàng gắn nhãn Quê Hương. Bực mình, bà xin chuyển từ Quê Hương sang nhãn hiệu Bến Tre chữ xanh, vừa cụ thể vừa khẳng định xuất xứ. Nhưng, hàng bán được một thời gian lại bị nhái như cũ, số lượng nhái càng tăng hơn trước… “Người dân cứ thấy rẻ là mua, ăn xong thì thấy chất lượng quá kém nên cơ sở của tui lại mang tiếng” bà Hai nhớ lại.
Nhận thấy có đổi kiểu nào cũng bị nhái, vì luật pháp Campuchia chưa bảo hộ người sản xuất, bà Hai bỏ luôn thị trường Campuchia và chuyển sang thị trường Trung Quốc mà bà đã chào hàng từ nhiều năm trước. Thị trường mới với dân cư đông đúc đã giúp công ty Đông Á bán được nhiều hàng hơn, công ty phải liên tục tăng số cơ sở sản xuất và lượng công nhân cũng như đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Đến năm 1998, bà được sang Trung Quốc tham dự khoá học về cải cách kinh tế. Tại đây, bà tranh thủ những ngày nghỉ đi tham quan các nơi, đồng thời ghé thăm các cửa hàng bán kẹo dừa Bến Tre và phát hiện một điều lạ: Nhiều người tiêu dùng Trung Quốc khi chọn mua kẹo dừa Bến Tre chỉ lựa những bịch kẹo có nhãn in trên trên giấy… xấu, vì bịch kẹo có nhãn ”xịn”, giấy láng in màu rất đẹp chất lượng thua xa loại kẹo chứa trong bao bì xấu. Tìm hiểu kỹ, bà phát hiện kẹo nhãn xịn lại là… kẹo nhái. Do giấy in và công nghệ đóng gói của Trung Quốc tốt hơn nên bịch kẹo làm ra có phần đẹp hơn. Nhiều người tiêu dùng không biết, mua phải kẹo này nên bắt đầu phàn nàn kẹo dừa Bến Tre kém chất lượng.
Với suy nghĩ không thể để thương hiệu Bến Tre bị “mất mặt” – khi bà xin lấy thương hiệu này, bà đã cam kết với lãnh đạo tỉnh là sẽ làm hết sức để xứng đáng với nhãn hiệu, với địa danh Bến Tre – bà Hai bắt đầu hành trình đi kiện. Một thân một mình nơi xứ người, bà thuê thêm 2 người phiên dịch, đi khắp các cơ quan chức năng của Trung Quốc để chứng minh địa danh Bến Tre là của người Việt Nam, chứng minh mình là nhân vật in trên bao bì (ảnh trên bao bì chụp năm 1982, khi bà đi kiện là tháng 8.1998). Cuối cùng, ông Chí Xình – chủ của công ty kẹo nhái cực lớn, buộc phải đóng cửa nhà máy, ngừng sản xuất “Kẹo dừa Bến Tre”.
3. Vinamit đòi thành công thương hiệu Đức Thành bị mất ở Trung Quốc
“Đức Thành” vốn là thương hiệu của Công ty CP Vinamit Việt Nam từ ngày đầu thành lập (1991) và cũng là thương hiệu phổ biến của Vinamit tại thị trường Trung Quốc. Từ năm 1997, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty Vinamit – ông Nguyễn Lâm Viên bắt đầu đưa sản phẩm mít sấy khô với thương hiệu Đức Thành sang Trung Quốc.
Số là tuy Vinamit đã thực hiện đầy đủ việc đăng ký bảo hộ bản quyền thương hiệu nhưng lại chỉ đăng ký sở hữu thương hiệu tiếng Việt mà không đăng ký sở hữu thương hiệu bằng tiếng Hoa, nên ngay lập tức bị chính nhà phân phối của mình đi đăng ký độc quyền thương hiệu Đức Thành bằng tiếng Hoa. Nhà phân phối này đã khống chế thị trường của sản phẩm Đức Thành và nhanh chóng cho ra một sản phẩm tương tự.
Đến năm 2007, khi đối tác được cấp bằng chứng nhận độc quyền thương hiệu Đức Thành thì ông Viên mới phát hiện ra sơ hở chết người trên, trong khi luật pháp nước sở tại yêu cầu phải đăng ký tên bản địa đi kèm với thương hiệu gốc mới được bảo hộ đầy đủ.
Điều đáng buồn là từ vị trí người chủ thương hiệu, một đơn vị làm ăn chân chính, ông Viên và Vinamit trở thành người ăn cắp hoặc kẻ làm giả thương hiệu.
Hậu quả, toàn bộ hàng hóa mang nhãn hiệu Vinamit đều bị hệ thống siêu thị của Trung Quốc từ chối nhận bán vì không hợp pháp, nguy cơ bị đánh bật khỏi thị trường nước này. Lãnh đạo Công ty thậm chí còn đối diện với nguy cơ bị bắt bất cứ lúc nào thì pháp luật Trung Quốc quy định tội làm giả thương hiệu có thể sẽ bị ngồi tù 5 năm.
Đến năm 2007, khi đối tác được cấp bằng chứng nhận độc quyền thương hiệu Đức Thành thì ông Viên mới phát hiện ra sơ hở chết người trên, trong khi luật pháp nước sở tại yêu cầu phải đăng ký tên bản địa đi kèm với thương hiệu gốc mới được bảo hộ đầy đủ.
Ông Viên suy nghĩ rất nhiều và đi đến quyết định phải chiến đấu giành lại thương hiệu bằng mọi giá, chứng minh mình mới là nạn nhân bị đánh cắp nhãn hiệu. Sau 3 năm tìm hiểu, tranh đấu quyết liệt, đến năm 2010, Công ty mới phát hiện ra chủ doanh nghiệp làm giả nhãn hiệu của mình chính là ông Xie Hong Yi – một thương nhân Trung Quốc, khách hàng từng mua sản phẩm Vinamit.
Từ đây, Vinamit bắt đầu theo đuổi vụ kiện đòi lại thương hiệu Đức Thành với ông Xie Hong Yi. Thời gian đầu, ông Viên thuê luật sư tại Việt Nam nhưng suốt 2 năm trời không giải quyết được vì điều kiện xa xôi cách trở. Sau đó, ông phải sang tận Trung Quốc tìm thuê luật sư cho vụ kiện của mình.
Sau thời gian dài nộp hồ sơ khiếu kiện đến Cục Sở hữu trí tuệ Trung Quốc, cuối cùng Cục này cũng đưa ra phán quyết: Thương hiệu Đức Thành là của Vinamit và yêu cầu người được cấp quyền sở hữu thương hiệu trước đó là ông Xie Hong Yi phải trả lại thương hiệu Đức Thành cho Vinamit.
Tuy nhiên, phán quyết đó không những không được Xie Hong Yi thực thi mà người này còn kiện ngược Vinamit ra Tòa án thương mại Bắc Kinh (Trung Quốc). Tới cuối năm 2012, Tòa án Thương mại Bắc Kinh tuyên Công ty CP Vinamit đã thắng kiện trong vụ tranh chấp thương hiệu Đức Thành với ông Xie Hong Yi.