Đọc sách cũng giống như nghe một câu chuyện từ một người hoàn toàn xa lạ hay có khi thật quen thuộc. Nghe xong rồi thì buông, cũng như đọc xong rồi thì hãy biết trở lại tâm trong sáng vô tư. Buông ở đây không phải là cố quên, cố phớt lờ, cố xem như không có gì, mà là thái độ không dính mắc vào câu chuyện, và không lấy câu chuyện đó, tri thức đó để lấp đầy tâm trí mình, vì đó cũng chỉ là tri thức chứ chưa phải trí tuệ. Người sở hữu tri thức càng nhiều, càng dễ chấp ngã, càng dễ có cái tôi cao.
Trí tuệ là sự thấy biết của mình thông qua trải nghiệm thật sự. Chẳng hạn, một người đọc về một chuyến đi đến Ai Cập, nhưng đó chỉ là tri thức. Chỉ khi người này đi đến Ai Cập và thấy, thì đó mới là tri kiến (cái thấy biết bằng trí tuệ). Cũng giống như một người đọc về triết lý buông bỏ trong đạo Phật và hiểu, thì đó là tri thức. Chỉ khi người này biết buông bỏ như thế nào trong trải nghiệm cuộc sống của mình, thì đó mới là trí tuệ. Với người đời, một trí thức là người sở hữu nhiều kiến thức (biết nhiều hiểu rộng), nhưng về đạo, một thiện tri thức đúng nghĩa là người thấy ra sự thật nơi mình và sống với sự thật đó, tức biết sống thiền.
Dù gì đi nữa, đọc sách nên là một quá trình tiếp nhận để chiêm nghiệm ngay nơi chính mình, chứ không phải là một quá trình tích lũy kiến thức. Nền giáo dục Việt Nam chú trọng nhiều vào việc học thuộc một cách máy móc, nhằm tích lũy tri thức, thậm chí có những tri thức lại không giúp ích gì cho đứa trẻ đó, mà tất cả chỉ khiến trẻ nhỏ có thói sở tri sở đắc, rất có hại về lâu dài. Nó khiến con người ta hơn thua nhau về tri thức, và xếp hạng nhau về mặt tri thức.
Chẳng hạn, một em học sinh biết rất nhiều kiến thức, đi thi giành rất nhiều giải, em ấy rất thông minh, nhưng có thể, em ấy lại không hề có trí tuệ. Ngược lại, một em học sinh học không thực sự giỏi, nhưng trong cuộc sống, lại biết khiêm nhường tự nhiên, biết mở lòng học hỏi, thận trọng – chú tâm – quan sát ở mỗi việc mình làm, em ấy mới thực sự có trí tuệ.
Như vậy, trí huệ không phải đến từ việc sở tri sở đắc mà là biết mình trong mỗi hoàn cảnh. Sự biết mình này khiến họ không dính mắc vào quan niệm, không lấy quan niệm ra tranh luận, mà biết khiêm tốn, sẻ chia, thông cảm, lắng nghe, quan sát mình và người để không so bì hơn thua, không sinh tâm, tham, sân, si với bất cứ ai khác.
Thành ra, người trí tuệ không cãi lý, không mong cầu độ ai, không nghĩ rằng mình đang hơn người, không phán xét người đang sai lầm. Họ đơn giản thấy mình trong mọi hoàn cảnh. Và đã thấy mình trong mọi hoàn cảnh thì khi đọc sách, họ cũng không bị dính mắc vào tri thức mà chỉ đơn giản đọc để rồi chiêm nghiệm ở nơi chính trải nghiệm riêng của mình. Và khi chia sẻ, họ cũng chia sẻ bằng cái thấy đích thật của mình, chứ không phải bằng quan niệm sách vở.
Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua tri thức, mà là một sự trải nghiệm tường tận bản chất đời sống mà giác ngộ. Mỗi người có một cuộc đời, sinh nghiệp cá nhân nào cũng rõ ràng chẳng giống nhau, tại sao cứ nhất thiết tạo ra một mối quan hệ tranh đấu?
Trang Ps
