Cái được gọi là “ Học thêm một năm, thu nhập càng cao” được Angrist và Krueger phát biểu năm 1991, trên《 Kinh tế học – số báo đặc biệt 》 (Quarterly Journal of Economics )với luận văn kinh điển tên:
Does Compulsory School Attendance Affect Schooling and Earnings?
Hầu hết các bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu của Angrist có thể được tìm thấy trên trang cá nhân của ông. Vì vậy, những ai quan tâm đến vấn đề này hoặc có nghi ngờ, có thể tự mình phân tích nó:
https://economicsmitedu/…/angrist/data1/data/angkru1991
Bối cảnh của vấn đề ở việc người có thời gian tiếp nhận giáo dục càng dài thu nhập thường sẽ cao hơn, ví dụ thu nhập của tiến sĩ thường cao hơn thu nhập của thạc sĩ, và thu nhập của thạc sĩ thường cao hơn cử nhân đại học. Cho nên, việc này khiến cho nhà nghiên cứu nảy sinh nghi vấn: Những người có thu nhập cao rốt cuộc do thời gian học tập của họ dài hơn, hay vì chính bản thân họ bẩm sinh đã thông minh hơn người, năng lực học tập tốt hơn những người khác? Hoặc do điều kiện gia đình những người này tốt, có thể tạo điều kiện cho họ học cao hơn?
Angrist đã tìm ra một phương pháp đặc biệt để giải quyết vấn đề này. Ở Mỹ, đại đa số những quy định của bang chỉ cho phép học sinh đã đủ 16 tuổi mới được phép thôi học ( cũng có bang quy định là 17 tuổi ); ngoài ra, miễn là trẻ đủ 6 tuổi trong năm đó đều có thể đến trường học vào tháng 9. Cho nên, những đứa trẻ sinh vào ngày 31 tháng 12 có thể đi học sớm hơn những đứa trẻ sinh vào ngày mùng 1 tháng 1 cùng năm, khi đạt đến độ tuổi có thể thôi học, học sinh có quyền thôi học và đi làm. Cách làm này đảm bảo cho thời gian tiếp nhận giáo dục của họ được lâu hơn.
Angrist thực hiện các phép so sánh và phát hiện, khoảng thời gian từ năm 1930 – 1939, nam giới sinh ra vào quý 4 có thời gian được tiếp nhận giáo dục cao hơn nam giới sinh ở quý 1 là 024 năm. Trong khoảng thời gian từ năm 1940 – 1949, khoảng thời gian chênh lệch này là 00085 năm.
Trên lý thuyết, cách tốt nhất để kiểm tra thời gian tiếp nhận giáo dục dài – ngắn có hay không ảnh hưởng đến thu nhập chính là thực hiện một cuộc thực nghiệm ngẫu nhiên.
Thực nghiệm được tiến hành bằng cách đem những đứa trẻ có cùng độ tuổi đi học phân chia ngẫu nhiên vào các nhóm khác nhau, mỗi nhóm sẽ có thời gian tiếp nhận giáo dục khác nhau, tuy nhiên lại có sự tương đồng về biến số. Sau một vài năm quan sát sự khác biệt về thu nhập của từng nhóm, có thể đưa ra kết luận như sau:
Thời gian ra đời sẽ có ảnh hưởng rõ rệt đến thời gian tiếp nhận giáo dục của một người, tuy nhiên không hề có ảnh hưởng đến những yếu tố về trí lực, đó là chính minh chứng của việc tạo hóa đã “ ngẫu nhiên” đem những con người này phân thành 4 nhóm có thời gian tiếp nhận giáo dục khác nhau. Trường hợp này được gọi là Thực nghiệm của tự nhiên ( Natural experiment ), tương tự như thời gian ra đời, các biến chỉ liên quan đến các biến mà chúng ta muốn nghiên cứu và không liên quan đến những biến độc lập khác. Trong kinh tế lượng, chúng được gọi là các biến công cụ (instrumental variables).
Angrist thêm các biến số liên quan đến mùa sinh như một biến công cụ, và kết quả quy hồi của phương pháp 2SLS biểu thị: Nam giới ra đời trong những năm 1930 – 1939, cứ với mỗi năm giáo dục được tăng lên, thu nhập của họ vào năm 40 tuổi sẽ tăng khoảng 9%. Ngược lại, ta không thể loại trừ sự ảnh hưởng của những nhân tố khác, bởi vậy kết quả của ước truy hồi chỉ là 7% ( có thể nói, trước luận văn này, đóng góp của giáo dục đối với thu nhập của con người thường bị đánh giá thấp ).
Sau khi bài luận văn này được công bố trên toàn thế giới, phương pháp biến công cụ đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của nhiều nhà kinh tế. Angrist, Imbens cùng những người bạn của ông đã đoạt giải Nobel năm nay, và họ đang dần phát triển những lí luận này thành một hệ thống.
Nhiều nhà kinh tế cũng đã cố gắng phân tích lại tập dữ liệu của Angrist và Krueger sử dụng theo những cách khác nhau. Năm 1955, hai nhà kinh tế Bound, Jeager và Baker đã chỉ ra rằng: Thời gian sinh tuy có ảnh hưởng đến đến thời gian tiếp nhận giáo dục, nhưng chỉ có thể giải thích được cho phương sai sau này là 002%. Cho nên, cho dù thời gian sinh có thể trở thành biến công cụ của giáo dục cũng chỉ có thể là biến công cụ yếu ( weak instrument ).
Sau khi khảo sát các biến công cụ yếu, mức lương của những người có thời gian tiếp nhận giáo dục nhiều thêm một năm thực tế còn cao hơn.
Năm 1998, Ashenfelter và Rouse đã nghĩ ra cách dùng phương pháp khác để nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa giáo dục và thu nhập: Họ phân tích 700 cặp song sinh; các cặp song sinh này có cùng thời gian ra đời cũng như điều kiện gia đình như nhau, và việc kiểm soát các biến số không liên quan đều là hoàn hảo. Kết quả chỉ ra rằng nếu một người trong cặp song sinh có thời gian tiếp nhận giáo dục nhiều hơn thêm một năm, thu nhập của người đó sẽ cao hơn thu nhập của người còn lại khoảng 9%.
Tổng kết lại, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh được đóng góp to lớn của giáo dục đối với thu nhập. Các nhà kinh tế từ nghiên cứu đã chỉ ra phương thức phát triển của vấn đề này, và ngày càng được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trên thực tế, ý nghĩa của loại nghiên cứu này là nhà nước cần đẩy mạnh giáo dục bắt buộc, phấn đấu giảm tỷ lệ học sinh bỏ học và đảm bảo học sinh chưa đủ tuổi vào đại học. Điều này sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp các gia đình nghèo thoát nghèo và kiếm thu nhập cao trong tương lai.
Đối với mỗi cá nhân, xin hãy nhớ rằng không nên vì khó khăn mà từ bỏ việc học, còn trẻ thì nên đọc nhiều hơn là làm bất cứ công việc gì.