Tên tôi là Sam Tuckett. Tôi làm việc cho một quán ruợu kì lạ của gia đình, tọa lạc tại một thôn nhỏ tí hin tên Fairview với dân số rơi vào khoảng 200 người. Đó là một thôn chài nhỏ được bao quanh bởi những cây hạt trần cao tít tắp không thấy ngọn. Khoảng hai thế kỉ trước, những cư dân đã đến đây xây dựng mái ấm giữa cánh rừng Red Spruce rậm rạp của Vermont.
Và nói thật lòng, nói Faiview là cổ lỗ sĩ vẫn còn là quá xúc phạm thuật ngữ đó. Sự chú ý lớn nhất của người ngoài dành cho nơi này là vài tài xế xe tải chạy rải rác qua nơi này để về phía đông.
Cha tôi từng nói, lí do duy nhất mà cái thôn này tồn tại là cho những người tài xế. Không có chúng tôi, họ sẽ mất nước, mỏi mệt cực độ khi phải lái xe qua cánh rừng bạt ngàn này. Sự thật mà cha tôi truyền cho này luôn vang vọng trong tôi. Sau cùng, cái thôn này vẫn chưa được công nhận cho đến khi Tạp hóa North Lake được xây dựng. Phần còn lại của thôn theo lẽ thường tình mọc lên quanh nó như nấm sau mưa.
Gia đình tôi khá có tiếng tăm ở vùng đất nhỏ này. Ông cố của tôi đã chứng kiến từng ngôi nhà mọc lên ở đây. Qua thời gian, mọi người trong thôn đều biết đến nhà Tuckett. Dù cho ban đầu không phải ai cũng chấp nhận chúng tôi.
Tôi nghe kể là vài thập kỉ trước, người dân ở đây đều rất cổ hủ. Họ sẽ không hi sinh một tí đức tin nào của bản thân mình. Vì thế đơn nhiên mọi loại đồ uống ngoài rượu thánh. Nhưng khi Ông cố của tôi mở quán rượu Foxhole, ông nhận ra những cư dân ở đều ngầm thích đồ uống có cồn hơn họ thể hiện. Hóa ra phần lớn người ở đây đều uống rượu ở nhà và ra đường giảng đạo lí. Không cần phải nói, quán nhà Tuckett cuối cùng luôn đủ vốn để duy trì quán rượu qua các thế hệ.
Bây giờ đến đời của tôi.
Tôi thấy mình như bị cầm tù ở chốn Fairview này. Tôi muốn thoát ra. Tôi đã dự định sẽ chuyển khỏi cái thôn bé tí này từ lâu rồi. Thật lòng mà nói, mùi tanh của cá ở chiếc hồ bên cạnh luôn phảng phất trong không khí. Nếu bạn ở đây đủ lâu, đó là tất cả những gì bạn có thể ngửi thấy. Khi tôi đủ lớn để giúp cho quán Foxhole, cái mùi đó đã làm tôi phát bệnh. Sau này thì chướng khí từ dòng nước còn nồng nặc và độc hại hơn bình thường nhiều lắm. Một đám sương mù đã giăng khắp khi thị trấn như muốn nhấn chìm nó vào một tô súp đặc. Tất cả điều này chỉ khiến tôi thấy mình bị giam cầm hơn.
Mặc cho tất cả những điều đó, tôi biết mình sẽ nhớ nơi này khi rời đi. Có lẽ đó là sự đền tội khi bỏ rơi quán rượu của gia đình.
Nhưng sự cám dỗ của ánh sáng phía chân trời đủ để giúp tôi vượt qua cảm giác tội lỗi đó. Tất cả những gì tôi cần làm để hiện thực hoá giấc mơ là hoàn thành khoá học của mình. Và cha mẹ tôi chỉ ra một điều kiện, đó là tôi phải làm ca tối cho họ vào mỗi cuối tuần, từ 9h tối đến 3h sáng. Bấy nhiêu đó là đủ để cha mẹ tôi vui lòng mà trả học phí cho tôi. Dù cho họ chỉ còn một khoảng nhỏ tiền tiết kiệm, tôi đảm bảo mình sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của họ với lòng biết ơn vô bờ. Sau cùng thì ở một nơi nhỏ bé như Fairwell, món tiền nào cũng đáng giá.
Nhưng điều xảy ra vào đêm đó đã thay đổi góc nhìn của tôi.
Lại là những gương mặt quen thuộc của lão O’Connor và bạn nhậu Billy Brooks. Họ ngồi ở chỗ cũ, hoà vào nơi bày trí mấy món đồ lặt vặt quanh những bức tường gỗ. Làn da già cỗi vì mưa gió và cháy nắng tới độ có khi người ta sẽ nhầm tưởng họ là hai bức tượng thạch cao. Có một câu đùa trong thôn là nhà Tuckett phải quét họ mỗi tuần một lần để mọi người biết họ còn sống. Gia đình chúng tôi khá chào đón hai vị khách ấy, dù sao thì một quán rượu trống vắng không thể là một quán rượu tươi tắn được.
Với tôi thì mỗi lần họ xuất hiện tôi không tiếp xúc gì. Cả hai đều không nói quá nhiều, cả với hai người họ và với tôi nữa. Nhưng tôi ổn với điều đấy. Tôi biết im lặng đồng nghĩa với việc họ thích tôi. Lần duy nhất tôi thấy cả hai chịu mở miệng và vận động cái cơ hàm rỉ sét của họ là để chửi một vài tên khách quen đã cư xử hơi quá gắt gỏng.
Phần lớn thời gian, họ chỉ ngồi trong cái góc nhỏ của quán Foxhole và lắng nghe chiếc TV cũ treo gần đó. Nó luôn lặp đi lặp lại vài sự kiện thể thao diễn ra từ nhiều năm trước. Cha tôi chưa bao giờ nâng cấp nơi này. Ông ấy luôn khăng khăng là mình đang cố giữ cảm giác nguyên bản của quán. Thật lòng tôi biết ông ấy chỉ không thể chi trả nổi vì còn phải đóng học phí cho tôi.
Lúc ấy, băng VHS vẫn còn được sử dụng bởi mọi người quanh đó. Vì thế chiếc TV bị dùng nhiều đến mức độ bão hoà bị tụt cực mạnh, trông nó như chỉ còn màu đen trắng. Màu sắc duy nhất còn xuất hiện là một dải màu lúc ẩn lúc hiện trên màn hình.
Đêm hôm đó tôi cắm cúi trong đống sách vở đến nỗi quên mất thì giờ. Bất chợt tôi ngước lên kiểm tra quán. Không có gì bất ngờ, cặp đôi đó vẫn ngồi chỗ của họ, nhìn lên chiếc TV cũ. Nhưng phía xa hơn xuất hiện gương mặt của một gã thứ 3.
Tôi không biết gã lạ mặt này là ai. Ông ta già hơn, chắc độ 5 mấy tuổi. Phần bụng thì hơi phệ, nhưng nhìn chung ông ta khá mảnh khảnh. Mái tóc xám bạc phủ hết da đầu cùng một bộ râu quai nón màu muối tiêu chạy dọc hết xương hàm. Chiếc mắt kính gọng kẽm nằm trên mũi khi ông ta nhìn sang menu đồ uống của Foxhole.
Tôi liếc nhìn qua chồng menu chán nản cạnh ông ta, ở phía đối diện. Tôi không nghe tiếng cửa mở và cũng chắc vl là cũng không nghe tiếng ông ta lấy cuốn menu. Tôi biết mình phải ngừng lơ đễnh đi, nhất là khi trong giờ làm việc. Khá chắc là nếu tôi không để ý, một cha nào đó cũng vào uống chùa một li đó chớ.
Tôi sẵn sàng để đến chỗ vị khách lạ kia khi nào ông ta muốn gọi đồ. Không chờ đến khi ông ấy rời mắt khỏi menu, tôi đã đứng cạnh bên. Tôi dõi theo hướng mắt của ông ta về âm thang phát ra từ chiếc TV cũ. Đơn nhiên nó không phải ấn tượng tốt lắm với khách mới đến, nhưng đó là cái giá phải trả cho việc ‘giữ bản sắc nguyên bản’.
“Xin chào Người lạ, ông đang tìm đồ uống đúng không? Rất lấy làm xin lỗi vì hiện tại chúng tôi không phục vụ thức ăn. Thứ duy nhất tôi có thể làm bây giờ là hâm lại một ít nacho trong lò vi sóng cho ông thôi.”
Vị khách đặt menu lên chiếc bàn gỗ xoài và chỉ ngón trỏ vào tấm bìa nhựa. Mắt ông ta hướng vào tiếng TV. Ông ta đáp một lúc sau. “Tôi muốn một whiskey chua (whiskey+chanh+đường+…) và một nước lọc.”
Giọng nói ông ta khác hẳn so với tôi đã tưởng.
Ông ta nói với chất giọng trầm và khàn đặc, tưởng như phát ra từ một dây thanh quản kiệt quệ. Nó chất chứa một sức nặng vô hình của quyền lực và tri thức mà chỉ một nhà hùng biện tài giỏi mới có thể sở hữu.
“Đơn nhiên rồi thưa ông, tôi sẽ mang đến ngay.” Ngay khi vừa quay lưng, tôi thấy ông ta rời mắt khỏi màn hình và chạm mặt với tôi. Có điều gì đó về đôi mắt ông như muốn mời gọi tôi. Tôi có cảm giác mình như dòng nước xoáy xuống rãnh, bị lôi kéo bởi gã lạ mặt này. Tôi chỉ có thể nói rằng đôi mắt của ông ta đen và sâu thăm thẳm. Tựa hồ một vực hố vô đáy.
Tôi lấy hơi và xoay người đi. Về lại phía sau quầy bar và làm nước cho ông ga, lấy chai nước trong tủ lạnh theo cùng. Cũng đã được một thời gian thôn Fairview không còn tin vào chuyện mấy loài cây thuỷ sinh sẽ lọc được nước nữa. Người dân bắt đầu chỉ tin tưởng mỗi nước đóng chai thôi. À còn nữa, cả thôn có mỗi một ông thợ sửa ống nước là Steven Wright ấy, nên tôi cá là vòi ở Fairview còn nhiều rỉ sét hơn là nước.
Tôi đi khỏi quầy bar với đồ uống trên tay. Với một động tác nhanh nhẹn, tôi đặt cả hai xuống bàn vị khách lạ đó. Ông ta lấy cái chai rồi lau lên quần jeans của mình cho thấm bớt nước đọng.
“Của ông đây thưa ngài, đồ uống cùng nước lọc. Chúng tôi không tính phí thêm cho chai nước. Tôi còn có thể giúp gì được cho ngài không ạ?” Tôi hỏi theo phản xạ “Mọi thứ ổn hết rồi chứ ạ?” Bỗng một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi. Tại sao tôi lại hỏi câu đó cơ chứ? Là một bartender, tôi chỉ có thể nhận được 2 câu trả lời vì truy hỏi khách như vậy. Câu trả lời thứ nhất, khách quen sẽ kêu tôi ngậm mẹ mồm vào. Câu trả lời thứ hai sẽ đủ khiến một gã trưởng thành bật khóc. Cả hai đều chả dễ dàng gì để đối mặt.
Nhưng người đàn ông này lắc đầu đáp lại, vẫn gõ gõ ngón trỏ lên menu. Tiếng ngón tay búng vào nhựa vang lên tí tách từng nhịp. Với sự hoang mang, tôi lo lắng bặm môi và quay lại quầy bar. Sau vài phúc trông chừng những vị khách trong quán, tôi lại lôi ra chồng giáo trình đại học và bắt đầu ôn cho lớp triết sắp tới. Tôi khá là thích lớp đó đấy chứ. Lớp Triết là một trong ít những lớp học mà giáo viên không cần bảo tôi làm bài của mình.
Khi lật những trang sách, tôi thường liếc nhìn lên hai ông cụ O’Connor và Billy Brooks uống bia và xem thể thao trên TV một cách thinh lặng. Rồi tôi đưa mắt qua Vị Khách Lạ kia. Ông ta có vẻ không cử động nhiều bất kể cho rựou trong cốc cứ cạn dần.
Sau vài trang sách, tôi đắm chìm trong bài vở của mình. Tôi luôn có hứng thú với Triết học.Có lẽ bộ môn đó hướng tôi đến một mục tiêu cao cả hơn, một mục tiêu không phải trở thành người pha chế ở cái thôn nhỏ xí rách nát này. Tôi sẽ níu lấy bất cứ thứ gì có thể giúp tôi thoát khỏi chỗ này. May mắn cho tôi là đạu học là một con đường tuyệt vời để làm điều đó.
Sau một lúc đắm chìm trong bài vở, tôi cảm giác như bóng ai đó cạnh bên. Tôi liếc mắt lên để nhìn xem thứ gì đang cản hết ánh sáng khi tôi đọc sách thì ối giồi ôi, tôi suýt nhảy bật ra ngoài. Vị Khách Lạ đang đứng trước mặt và nhìn thẳng vào mấy cuốn sách. Trước khi tôi kịp hoàng hồn để bật ra tiếng, ông ta đưa chiếc li rỗng ra.
“Làm ơn cho tôi xin thêm một li”, ông ta bảo. Giọng ông ta vẫn căng như dây đàn nhưng lần này có vẻ thiện chí. Tôi chỉ có thể đoán mấy li nước này đã giúp ông ta cởi mở hơn trước.
Vì là một nhân viên, tôi gật đầu. Hai má bắt đầu đỏ cả lên. Tôi thấy hơi xấu hổ khi không nhận ra ông ta đã đứng đó cùng li nước trống không ngay từ đầu. Rồi tôi ra phía sau buồng rượu quán và làm một li whiskey chua khác cho ông ta.
Khi đang pha chế cốc nước, tôi nghĩ về ánh mắt của gã đàn ông hồi nãy. Vị Khách Lạ đó đã quét và xử lí hết mọi thông tin của từng chữ trong quyển sách của tôi, làm chuyện đó chỉ với vài giây. Nếu là một ngày nào đó khác, tôi sẽ ấn tượng với khả năng đọc của ông ta lắm. Nhưng vào đêm đó, ông ta đứng đối diện tôi, tức là ông ta đang đọc ngược. À khoan điều này vẫn chẳng phủ nhận gì được khả năng đọc thần sầu của ông ta cả. Đôi mắt của ông ấy vẫn lướt hết qua từng câu một. Phỏng đoán duy nhất của tôi là năng khiếu đọc chữ của gã này vượt xa tôi lắm lắm.
Sau khi quay lại phía gã đàn ông, tôi định sẽ than vãn chút ít, giả vờ giở giọng biện hộ rằng tôi lo học quá nên bị phân tâm. Đến lúc nhìn lại chỗ gã, tôi chợt nhận ra Vị khách lạ này đã lật qua hết cuốn sách triết của tôi.
“Ồ, đừng quan tâm nó. Chỉ là một cuốn sách cho lớp đại học ấy mà.” Tôi đợi một lúc nhưng gã không thèm rời mắt khỏi cuốn sách. Cơn tò mò xâm chiếm, tôi hỏi, “Ông có hứng thú với triết học à?.” Tôi lắc nhẹ li nước trong tay khi bật ra câu đó.
“Ta đã dành cả đời để miệt mài với nó.” Ông ta đáp. Giọng ông ta chất chứa cả sự hãnh diện xen lẫn nỗi buồn. Nghe cứ như ông ta là một người đầy tâm sự và đổ vỡ.
“Thật sao?” tôi châm biếm. “Ông là giáo viên à?” Tôi đổ nước của gã vào chiếc li mới và đưa lại trước mặt gã. Ông ta ngồi lên chiếc ghế trước quầy bar.
“Cũng tương tự ở vài điểm. Nhưng ta sẽ đánh liều và nói ta gần hơn với một nhà nghiên cứu.” Vị Khách cầm lấy chiếc cốc và nhìn chằm chằm vào nó, ánh nhìn như muốn nuốt chửng cả thiên hà.
“Ông có làm ở Đại học nào không? Tôi có thể nói mình khá thích nhận được vài lời cố vấn từ một người thầy giỏi.” Tôi cười nhằm xua bớt bầu không khí ảm đạm. Tất cả những gì tôi nhận được là ông ta nhếch cười trong một thoáng. Thật lòng mà nói, như vậy đã là nhiều lắm rồi.
“Có một thời gian ta đã làm thế.” Những ngón tay của Vị Khách Lạ gõ vào li nước trước khi đưa miệng li lên môi. “Gần đây thì chỉ làm việc hợp đồng thôi.” Ông ta uống một ngụm.
“Việc theo hợp đồng à? Giáo sư Triết của chúng tôi luôn cảnh báo là công việc tấm bằng Triết học có thể mang tới chỉ có thể là dạy học hoặc diễn thuyết.” Tôi vội rút lại lời mình. “Tôi biết ông ấy chỉ đùa thôi nhưng thật sự tôi chưa từng nghe tới hợp đồng Triết học trước đây.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu đối diện người đàn ông, sự tò mò đã đạt đến đỉnh điểm.
Vị Khách đặt li nước xuống chiếc bàn bar cổ ở giữa. “Nó không lạ nhưng cũng không phổ biến. Đôi khi những công ty, thậm chí là chính phủ, muốn một ai đó đi theo để đặt một câu hỏi to hơn.”
Tôi suy nghĩ về những việc mà một công ty có thể giao cho một Nhà triết học, nhưng tôi thấy hi vọng của mình quá mong manh.
Cuối cùng tôi quyết định hỏi thẳng Vị Khách Lạ, “Cho tôi hỏi việc đó có thể ứng dụng vào tình huống nào không?”
“Mark 11:23.” Vị Khách đáp, thở nhẹ một hơi giữa câu hỏi của tôi và câu trả lời của ông ta. “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai sẽ biểu hòn núi này rằng: Phải cất mình lên, và quăng xuống biển, nếu người chẳng nghi ngại trong lòng, nhưng tin chắc lời mình nói sẽ ứng nghiệm, thì điều đó sẽ thành cho.” Giọng ông ấy vỡ ra, nhưng ông ta nhanh chóng đưa vài ngón tay lên để chặn lời tôi và lấy lại giọng mình. “Vậy nói ta nghe, về mặt triết học và thần học, điều đó có nghĩa là gì?”
Vị Khách Lạ đọc lên những từ ngữ từ Kinh Thánh với không chút lưỡng lự hay tính toán. Đây rõ ràng là một thứ gì đó nằm sẵn trong đầu ông ta kể từ lúc bước chân vào Foxhole này và có khi là trước lúc vào đây nữa.
Tôi cố hết sức trả lời.
“Để đơn giản hoá câu chuyện thì chẳng phải nó chỉ có nghĩa là nếu bạn bao một ngọn núi di dời và tin tưởng hoàn toàn là nó sẽ làm, thì nó sẽ làm?” Vị Khách chầm chậm lắc đầu ‘gần nhưng chưa hẳn đúng’
“Đúng vậy, đó là những gì câu truyện mơ hồ truyền đạt. Nhưng nếu ta mở rộng câu hỏi ra hết mức, đến cuối nó sẽ dẫn đến một câu hỏi là bản thân niềm tin nghĩa là gì? Điều gì tạo nên niềm tin và điều kiện tiên quyết của nó là gì.”
Ông ta cầm li whiskey lên đưa nó vào lòng bàn tay. Ánh đèn vàng buồn tẻ rọi lên chiếc li làm nó ánh lên khi ông ta đưa li rượu ra vào trong tay mình. “Tôi có thể nghĩ li rượu whiskey này là nước lọc nhưng không có nghĩa nó là nước. Mặc cho tôi có tin như thế nhiều đến mức nào.”
“Ừ thì chúng ta đang nói về một đoạn Kinh Thánh, nên chẳng phải yêu cầu đầu tiên là phải tin vào quyền năng của Chúa sao? Bằng không thì Kinh Thánh chỉ là một câu chuyện.” Ông ta lại đặt chiếc li lên bàn và nhấn nhấn thái dương như đang suy nghĩ.
“Hoặc có thể cậu là một người ủng hộ Quỷ dữ giống ta và thích tranh luận về một ý tưởng cậu không cần phải tin tưởng.” Một vài giây thinh lặng trước khi ông ấy tiếp lời. “Nếu được thì cứ tiếp tục với ta đi. Nếu cậu đưa sự cân nhắc của mình vào chuyện Kinh Thánh phải chính xác và sự hiểu biết của chúng ta về nó là sai, vậy niềm tin là gì?” Tôi lắc đầu. Không có gì gợi trong đầu tôi có thể thoả mãn câu hỏi của ông ta.
“Ta hãy dùng nền tảng mới của sự thật để trả lời câu hỏi nào. Matthew 14:22-23. Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
‘Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài’
Đức Giê-su bảo ông: ‘Cứ đến!’
Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: ‘Thưa Ngài, xin cứu con với !’
Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: ‘Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?’
Vậy nói ta nghe xem Sam, tại sao Người lại hoài nghi? Dù cho Người đã thấy Giê-su đi trên nước. Dù cho bản thân Người cũng đã gắng đi được vài bước trên bề mặt thay vì chìm sâu xuống nước. Niềm tin của Người phải là thứ mạnh mẽ nhất chứ.”
Tôi đứng hình một lúc, để bài học này cuộn trong đầu mình. Tôi là một người chưa từng có đức tin thật sự nên việc bênh vực một cách không thể chối cãi Kinh Thánh là một trò chơi mới cho tôi. Tôi chỉ có thể nhún vai trước câu hỏi đó.
“Đó là ngọn gió đã thuyết phục Người rằng Người không thể đi trên nước. Do yếu tố bên ngoài. Nếu điều này diễn ra ở một khoảng trống chỉ có Giê-xu và Người, có lẽ Người đã có khả năng giữ vững niềm tin của mình.” Một lớp nước đọng mỏng đã hình thành trên vỏ của chai nước lạnh cạnh tay của Vị Khách Lạ, chai nước chưa có ai đụng đến. Với một cái chạm nhẹ, Vị Khách đụng ngón út của mình vào những giọt nước. Trong ánh sáng lờ mờ của quán rượu, tôi thề rằng mình đã thấy những giọt nước tự vươn đến ông ta trước khi da ông kịp chạm vào chúng.
“Nhưng với tất cả những thứ Người đã biết khi lớn lên, chúng đã tước đi của người khả năng để thật sự tin tưởng vào bất cứ điều gì.” Ông ta tiếp lời. “Liệu Người có nên nhảy khi trong tiềm thức của Người đã biết mình sẽ rơi, mặc cho Người rất muốn bay lên cao. Niềm tin phải được tạo dựng khi vượt khỏi mọi ý thức để có thể chạm đến gần hơn với những gì Giê-xu đã đạt được.
Tôi chống tay lên cằm khi vị Giáo sư già nói chuyện. Không có vẻ ông ta đang nói chuyện với tôi mà thay vào đó, dường như ông đang với lấy thứ gì đó khác.
Tôi bị mê hoặc bởi cử chỉ và nhịp điệu trong lời nói của ông ta. Nó gợi tôi nhớ lại về một màn độc thoại nội tâm của ai đó. Cứ như là những suy nghĩ ẩn sâu bên trong Vị Khách này đang được phô bày ra hết trước mắt tôi. Vị Khách Lạ hoàn thành bài nói của mình với một câu hỏi cuối cho tôi. “Vậy nếu muốn tiến hành một cuộc thử nghiệm để minh chứng cho giả thuyết này, cậu sẽ cần làm những gì?”
Tôi ngẫm trong một thoáng. Tôi có thể thấy ánh mắt của Vị Khách ghim thẳng vào tôi lần đầu tiên trong đêm đó. Ông ta đang ép tôi phải đưa ra một câu trả lời cụ thể. “Tôi đoán mình sẽ cần ai đó không có bất kì một định kiến nào về cách vận hành của thế giới.”
Vị Giáo sư, im lặng nhất có thể, vỗ tay và rướn người về phía tôi. Bằng chất giọng trầm khàn ông ta đáp “Chính xác.”
“Nhưng điều đó là không thể mà đúng chứ? Giê-xu có quyền năng tối thượng để giúp đỡ đức tin của Ngài. Phần còn lại trong số chúng ta đã học cách thế giới này vận hàng từ khi ta được sinh ra.”
“Đúng và đó cũng chính là vấn đề.” Một tiếng thở dài trượt ra từ miệng ông ấy. Nghe tựa tiếng cát cuồn cuộn trong hang đá. “Tuổi tác không quan trọng đối với niềm tin. Nếu cậu nhìn thấy cha mẹ của mình đứng trên mặt đất trong phòng phẫu thuật từ giây đầu tiên cậu được sinh ra, cậu sẽ chẳng bao giờ nghĩ cậu có thể bay. Vì thế tuổi tác không quan trọng.”
Với một thái độ gần như vui vẻ, ông ta nói thêm, “Tuy nhiên một đứa bé có thể nổi lên mặt nước, dù cho có kì diệu đến mức nào, cũng không đủ khả năng để nói rõ là chính xác cần làm gì để nổi hay niềm tin thật sự là gì. Nên cậu sẽ cần một người lớn cùng sự biến mất hợp pháp.”
“So to create a vacuum would require a vacuum (trans: hiểu nhưng không biết dịch như nào, xin thua ;-;). Ông sẽ cần một không gian không giới hạn.” Tôi vặn lại ông ấy.
Vị Khách lấy một hơi sâu và đau đớn, phong thái của ông ta thay đổi một lần nữa. Cảm giác kiểu lưỡi của ông ta đang cố chậm lại để não ông ấy bắt kịp.
“Đúng vậy. Chúng ta cần tìm ai đó để có thể biến người đó thành một tín đồ. Bằng cách lột bỏ mọi thứ người đó biết về thế giới.” Môi ông ta run nhẹ khi tiếp tục cất lời. “Chúng ta cần đặt anh ta nằm xuống, vật thí nghiệm ấy, và tước bỏ hết mọi giác quan của anh ta. Chỉ trừ thính giác. Cuối cùng, chúng ta cần thuyết phục anh ấy về điều tưởng như không thể.
Cách duy nhất để lột bỏ mọi giác quan của anh ta là tắt hệ thần kinh đi.” Người đàn ông đưa tay ra làm hình cái kéo và làm động tắt cắt. Tôi gần như đã nghe thấy tiếng kéo nhấp thoáng qua trong bầu không khí lạnh ngắt quanh chúng tôi.
“Và khi ấy chỉ còn duy nhất đôi tai để lắng nghe. Đôi mắt là một vật cản trở vì vậy cũng phải loại bỏ nó. Kể cả sự ẩm ướt và khô cằn của cái miệng cũng đủ để gợi cho vật thí nghiệm nhớ hắn vẫn còn là con người và chịu chi phối bởi quy luật tự nhiên. Vì thế phải cắm mấy cái ống vào mặt hắn, một cái bơm đồ ăn và cái còn lại bơm chất bôi trượt miệng để giữ cân bằng. Sau đó cứ để hắn ngồi đó một lát. Vài ngày, vài tuần, đủ dài để hắn quên đi việc làm con người.”
Tôi chợt nhận ra miệng tôi hé mở trong vô thức. Chỉ nghĩ về chuyện làm điều đấy với ai đó thôi cũng khiến tôi thấy khiếp hãi. Tất cả những gì tôi có thể là lẩm bẩm đáp lại “Nghe dã man quá.”
“Không, quả là thiên tài đó chứ. Hoàn toàn đối nghịch với dã man đấy. Những nhà khoa học nắm giữ mọi quyền kiểm soát có thể đủ khả năng để trả lời mọi câu hỏi mà bộ óc triết lí của một cá thể có thể nghĩ ra.”
Vị Khách đưa hai ngón tay ra, chỉ chúng vào nhau. “Độc ác với vài người, đại tài với phầ còn lại. Nếu chúng ta có thể biết được bí mật của lòng tin thì di dời núi non và đi trên mặt nước sẽ là thứ ít vĩ đại nhất ta có thể đạt được.” Trong một khắc, tôi đã cảm thấy thứ gì đó độc hại đang trồi lên trong cơ thế tôi. Tôi phải tự gợi nhắc cho mình là tình huống này không hề xảy ra. Không thể xảy ra.
“Được thôi, vậy sau khi hắn, gì nhỉ, mất đi ý thức thì bước tiếp theo là gì?”
“Đến thời điểm đó, vật thí nghiệm hoàn toàn trung tính. Không một tiếng động, cảm xúc, khát khao hay nhu cầu, chỉ duy một sự thinh lặng.” Ông ta cứ để câu chữ kéo dài, để cho âm tiết cuối kẹt trên môi và nhấn mạnh thêm vào ý nghĩa của nó.
“Cậu sẽ biết khi nào tâm trí của hắn đã hoàn toàn trống rỗng bằng cách nhìn vào biểu đồ y tế. Không còn những đỉnh nhọn cao vút từ sự lo lắng hay sợ hãi, chỉ còn những đường chán chường ảm đạm. Bấy giờ, khi việc này đã xảy ra, đã đến lúc đem đến nguồn âm thanh tương phản với mọi định luật của thực tại. Vật thí nghiệm phải nghe được nó. Hắn phải học thuộc luôn nó.
“Sau một lúc, chúng ta sẽ bắt đầu thấy biểu đồ bắt đầu có những đỉnh nhọn một lần nữa. Nhưng lần này thay vì ý thức đang dần tàn lụi, ý thức mới lại đang được tạo ra. Vật thí nghiệm sẽ được giám sát 24/7 đề phòng bất kì dị thường nào. Nhưng sau một khoảng thời gian, một vấn đề được dấy lên rằng có lẽ hắn đang bị giam trong chính tâm trí của mình. Có thể hắn đã tự gợi lên một thế giới trong khoảng không não bộ của mình, nơi mà hắn đắm chìm thay vì thực tại này. Sau tất cả mọi thứ, vào lúc này chúng ta chủ có thể hi vọng rằng đối tượng thí nghiệm không còn thật sự biết thực tại là gì.”
“Vậy ông giải quyết việc đó như thế nào?”
“Chúng ta cần mở mắt của hắn ra. Đúng vậy, chúng ta cần lắp lại mắt cho hắn. Đó là đôi mắt mà chúng ta đã móc ra từ đầu cuộc thí nghiệm mà cứ ngỡ sẽ không cần chúng thêm lần nào nữa. Nước đi thật sai lầm. Vì thế chúng ta phải thực hiện một cuộc phẫu thuật để phục hồi thị lực của hắn bằng cách cấy ghép. Ca phẫu thuật đã thành công.” Vị Giáo Sư ngừng nói. Giọng ông ta bỗng hạ lại thành tiếng thì thầm.
“Chuyện gì xảy ra sau khi thị lực được phục hồi?” Bầu không khí giữa hai chúng tôi mới lạnh lẽo và chết chóc làm sao. Rượu của ông ta đến lúc này đã cạn sạch.
“Kết luận rằng đối tượng thí nghiệm đã thành công, chúng ta đã tạo ra một tín đồ thật thụ. Quá trình trải qua cả ý thức lẫn tiềm thức. Sau cùng, chúng ta đưa hắn về với thế giới này để minh chứng cho giả thiết đã đặt ra.” Vị Khách nuốt sự hối tiếc vào và bật ra từng lời. “Bảo ngọn núi di dời và nó sẽ di dời. Vấn đề ở đây chỉ là, chúng ta không tạo ra một tín đồ, chúng ta đã tạo ra một vị Chúa.”
Quán rượu tĩnh lặng đến mức tôi nghe tiếng chuông vang lên bên tai. Tiếng chuông lớn đề mức dội vào thị giác của tôi làm nó mờ đục. Mọi thứ tôi có thể nghĩ là dù cho Vị Khách Lạ kia có nói gì đi nữa, nó cũng không phải là thật.
“Đối tượng thí nghiệm không biết nó trông như thế nào, nhưng nó mang niềm tin rằng nó không còn là con người nữa. Và đúng là như vậy. Nó khôn biết cơ thể của nó là gì nhưng nó mang niềm tin rằng cơ thể này không còn bị ràng buộc bởi xương và da. Và đúng là như vậy. Những bức tường không thể giam giữ nó và nó còn không biết bức tường là gì. Trọng lực, thời gian, không gian, không là nghĩa lí gì với nó.”
“Nó trông như thế nào?” Tôi lắp bắp.
“Ta chỉ thoáng nhìn qua hình dạng của nó sau khi máu thịt hoàn toàn bị lột ra khỏi thân thể nó. Tôi-” Ông ta ngập ngừng, cố tìm từ thích hợp. Sự bối rỗi bao trùm lấy gương mặt khi đôi mắt ông ta ghim vào chiếc bàn rượu. Mỗi cái chớp mắt, cứ tưởng như ông ta đang nhìn lại về phía người đàn ông hoá Chúa kia.
“Nó là vô cực. Một thượng thể vô tận của sự báng bổ. Im ắng đến mức không tưởng, bóp nghẹt mọi sự tồn tại không chỉ quanh nó mà đến mọi ngóc ngách trong tâm trí của cậu. Những cái bóng của mô thịt và đêm đen nhảy múa, đập thình thịch và quằn quại. Mấy vì sao bao quanh những cái mồm há hốc, cứ trồi không ngừng lên bề mặt. Sự hiện diện của nó bành trướng hơn tất thảy thể xác nó. Ta chỉ thấy nó trong một khắc trước khi chạy thoát khỏi phòng phẫu thuật. Ta thật may mắn vì thoát được khỏi đó.” Mắt ông ta nhìn vào những hạt nước lăn dài trên chai. Tâm trí của ông ta cuối cùng cũng lắng lại sau khi tăng tốc.
“Kể từ đêm đó, ta nhận thấy thị lực của mình có nhịp đập dù cho ta biết không có gì sai với đôi mắt của mình cả. Chính ý thức của ta đã bị hư tổn. Sau tất cả, ta có niềm tin vào thứ ta thấy đêm đó.” Tôi câm nín khi Vị Khách đặt phần tiền nước lên bàn và nhẹ nhàng rời khỏi.
Trong giây phút cuối cùng, mắt hai chúng tôi giao nhau. Con ngươi của người đàn ông giãn ra và co lại như một trái tim đang đập. Chúng liên tục đẩy tôi ra và hút tôi vào. Không đợi đến khi Vị Khách Lạ quay người đi và tiến khỏi cửa, tôi lấy lại giọng mình.
“Tất cả chỉ là một câu chuyện đúng chứ? Chỉ là một cuộc thí nghiệm tưởng tượng mà thôi?”
Người đàn ông khựng lại một giây trước ngưỡng cửa.
“Không.”
Và cuối cùng ông ta đẩy cửa rời đi. Tiến vào màn đêm với sương mù giăng khắp lối, cứ như thả mình lặn vào một bể mực. Ông ta tan biến ngay trước mắt tôi. Trước khi cả cánh cửa quán kịp đóng lại.
Tôi bị bỏ lại cùng sự im ắng không thể chống trả, đơn độc.
Lúc đó đã là 3h sáng, O’Connor và Brooks đã rời đi trong đêm. Tôi không thể nhớ được liệu họ có chúc tôi ngủ ngon không. Giờ nghĩ lại về đêm đó, tôi không nhớ được gì nhiều. Tất cả những gì tôi biết là tôi tin vào câu chuyện của Vị Khách Lạ kia. Và hình ảnh của vị Chúa mới cộng hưởng trong trí óc tôi theo cách vị Chúa cũ chưa bao giờ làm được.
Nếu câu chuyện của Vị Khách Lạ là thật, tôi có niềm tin rằng một ngày nào đó chính tôi sẽ thấy vị Chúa.
Tôi phải đảm bảo rằng bạn cũng sẽ thấy Chúa sớm thôi.