Câu chuyện ám ảnh cả đời của ông tôi – người lính từng tham gia thế chiến thứ II

Ông tôi là một người phi thường. Sinh ra trong nghèo khổ, vào tù những năm tuổi trẻ trước khi đứng dậy và chiến đấu cho quân Ấn Độ thuộc Anh, nơi mà sự đóng góp của ông được ghi nhận. Sau khi Ấn Độ độc lập, ông còn giành được rất nhiều huy chương vàng quốc gia môn vật, hoàn thành chương trình học phổ thông và thành công khi lập công ty xe tải. Thực sự ông đã sống một cuộc đời phi thường. Những năm tuổi cao, ông sống lại những kí ức thanh xuân qua những câu chuyện kể với mọi người. Lũ trẻ chúng tôi thường quây quần xung quanh, nghe ông thiết đãi những chuyện trong cuộc đời, dường như ông luôn tìm được niềm vui khi làm chuyện này.

Nhưng có một chuyện duy nhất mà ông không kể cho tới tận giây phút cuối cuộc đời. Câu chuyện khiến tôi nhớ mãi sau ngần đấy năm. Tôi còn thậm chí nhớ như in khoảnh khắc đó, lúc mà mắt ông mở to, đôi tay run rẩy trong sợ hãi khi kể lại điều ám ảnh nhất trong cuộc đời.

May thay tôi còn cuộn băng thu âm, ghi lại từng từ những gì ông nói hôm đó…

>>> Đoạn ghi âm được phát >>>

… Cháu có muốn ghi âm lại không? Vì chuyện này không dễ nghe lắm…. Được rồi, đừng nói với mẹ cháu những gì ta kể hôm nay, vì ta không muốn phải chịu trách nhiệm cho những cơn ác mộng và cháu có thể gặp phải chỉ vì chuyện này.

Tất cả bắt đầu từ năm 1942, xem nào,… giữa chiến dịch Arakan. Quân Nhật Bản dồn toàn lực vào Miến Điện… ý ông là Myanmar. Chiến dịch đó là đợt tấn công đầu của quân đồng minh, và nó thất bại hoàn toàn.

Quân ta không hề chuẩn bị cho trận chiến. Cháu hãy nhớ, hồi đó khi những người Ấn còn chẳng lên được hàm tá và toàn bộ đồn chỉ huy đều bị người Anh nắm giữ. Và dân Anh không hề biết họ đang làm cái khỉ gì. Họ không hề có kinh nghiệm chiến đấu trong những khu rừng ẩm thấp, hạ tầng giao thông, đường dây cung cấp, tất cả đều cực tệ. Địa ngục Bengal, nơi khởi đầu của cuộc xâm lược và phải hứng chịu nạn đói khủng khiếp một năm sau đó. Ông chắc chắn các cháu đã được học điều này ở trường.

Quân Nhật Bản thì khác, chúng được trang bị tốt và tấn công du kích thường xuyên. Không ngạc nhiên khi một đội tuần tra của ta có thể bị lính Nhật quét sạch trong nháy mắt. Kẻ địch đột ngột xuất hiện từ bóng tối và biến mất trước khi viện binh kịp tới. Tình hình rất tồi tệ khi ông và đồng đội luôn cận kề với tử thần. Mỗi cành cây gãy, từng tiếng lá rơi cũng có thể khiến họng súng đỏ lửa.

Những điều kiện khắc nghiệt đó lại khiến lính quân ta bị gục do bệnh nhiều hơn là do bom đạn. Thức ăn còn lại chỉ giúp những đôi chân đủ đứng được trên mặt đất. Sốt rét, tiêu chảy, kiết lị luôn đe dọa. Rắn, nhện, côn trùng trong rừng bò lên những con người gần như ngã quỵ trong trận chiến. Còn lũ ruồi như đám mây đen bu quanh xác những chiến hữu đã hi sinh. ĐỊA NGỤC! Mưa như trút nước vào cánh rừng, khiến cho không khí ẩm thấp và làn da cảm giác như muốn tan chảy. Những cơn mưa không ngớt đã phá hủy những đường dây liên lạc. Mưa khiến đất nhão ra, thậm chí một số người lính còn bị lún xuống tận đùi khi bước vào những bãi lầy. Tình hình rối ren đến mức công tác chỉ huy bị phá vỡ hoàn toàn, những đám lính gần như hoạt động độc lập với nhau.

Trong lúc khốn nạn nhất, ác mộng mới xuất hiện.

Một trong những góc tối tồi tệ nhất của chiến đấu trong rừng là chiến tranh tâm lý. Quân Nhật bắt cóc lính của ta, tra tấn dã man để lấy thông tin, chúng ác độc đến mức mà cháu không thể tưởng tượng nổi. Sau đó những người lính xấu số được thả về, hấp hối, cố bám víu lại cuộc sống rồi mới ra đi. Ông không thể cứu họ. Điều duy nhất có thể làm được là bất lực nhìn chỉ huy, anh em, đồng đội hi sinh ngay trước mắt, vì đống thuốc men ít ỏi còn lại chẳng thể cứu được ai cả.

Nhưng đó không phải thứ tệ nhất. Cháu biết đấy, một trong những việc mà địch thích nhất là dùng quân ta như mồi nhử để tóm tất cả lực lượng còn lại. Chúng tra tấn nạn nhân gần quỵ, rồi buộc lên cây, thường là những chỗ dễ thấy và nấp đi chỗ khác. Nếu ông bước ra để cứu, chúng sẽ đón lõng và diệt hết thảy. Nên tất cả những gì ta có thể làm là không lộ diện và lắng nghe những tiếng rên đầy đau đớn phát ra từ cổ họng của những người lính. Đợi cho đến khi giọt sống cuối cùng bị vắt kiệt khi họ khóc vì nhớ mẹ trong vô thức.

Một sự việc đã thay đổi mọi thứ khi Jame Wavell, người họ hàng xa của Archibald Wavell, chỉ huy trưởng của quân đội Ấn Độ Anh (và sau này là Viceroy) phụ trách đội của ông. Archibald đã phái ông và mọi người đi tuần tra  ngày hôm đó. Tiểu đội khoảng chục người đang băng qua rừng thì bỗng nghe thấy tiếng la hét.

Để ông bảo cháu điều này, ở trong rừng thì rất khó lần ra tiếng động lớn đến như vậy. Nếu ai đó hét, cảm giác như âm thanh đang đến từ mọi hướng, giống như khu rừng vọng tiếng và nói với chính nó vậy.

Nhưng không phải lần này.

Như bản năng, ông và mọi người như biết được chỗ của tiếng hét. Trong cơn bàng hoàng, tất cả đều giữ chặt súng và đi tới, hoặc có lẽ đã bị dẫn tới chỗ đó. Không mất nhiều thời gian để tìm thấy người đàn ông đang hét. Anh ta mặc quân phục của Ấn Độ, ít nhất là quần dài, cái áo thì rách tả tơi và dính trên vai. Anh ta,…Lạy Chúa, tệ thật, … Anh ta bị treo trên cây, tay đặt lên bụng, cố gắng lôi ruột ra, như đang giật  những sợi dây thừng đầy máu.

Tiếng hét của anh ta, bây giờ ông vẫn nhớ như in. Nó khiến tai ông rung lên, nỗi đau trong tiếng hét đó như găm vào xương tủy. Ông tiến đến anh ta, không hề nhận ra mình đang làm gì trước khi có một bàn tay đồng đội đặt vào vai và giật ông lại. Ông nhìn thẳng vào con mắt người lính đó, chúng mở to và đầy thận trọng, giống như biết trước có chuyện gì chẳng lành. Anh ấy từ từ lắc đầu, cảnh báo ông đừng lại gần cho dù người đàn ông bị treo trên cây kia vẫn đang điên loạn gào thét. Ông nuốt nước bọt và gật đầu.

Mọi người chia ra và tản vào rừng, cảnh giác, giữ nhau trong tầm mắt, chuẩn bị cho trận phục kích của quân Nhật. Lúc ông nhăn mặt khi có tiếng cành cây gãy dưới đế giày là lúc ông nhận ra mình đang sợ. Không phải do quân Nhật đang nấp đâu đó, mà là do người đàn ông bị thương phía trên. Ông không giải thích được, nhưng cảm nhận thấy rõ điều đó. Sâu thẳm trong tâm hồn, từng thớ cơ, sợi thịt đang hét điên loạn để khiến ông chạy khỏi chỗ đó, chạy cho đến khi bỏ xa người lính đó lại phía sau.

Ông chọn vị trí ở phía bên trái và chờ đợi. Đợi cho anh ta gục, hoặc kiểu như vậy. Nhưng nó không xảy ra. Anh ta hét, khóc, van nài, chẳng có dấu hiệu gì của việc kiệt sức. Một vài phút thành vài giờ, mặt trời bắt đầu khuất sau chân trời và tiếng hét vẫn vang lên. Ông và đồng đội chôn chân ở đó, không thể di chuyển, như bị mê hoặc vậy. 

Trăng lên trên trời cao, máu của gã đó chảy xuống, lấp lánh dưới ánh sáng mờ nhạt. Nhưng hắn vẫn không hề gục.

2 chân ông đau nhói, cổ cứng đờ, ông có thể nghe thấy tiếng khóc thút thít vì sợ hãi của người bên cạnh. Giống như tất cả đều biết người sắp chết không phải là kẻ đang bị treo lên cây, mà là bọn ông, những người đang đứng phía dưới. 

Và rồi mọi thứ bắt đầu.

Người đàn ông đó ngừng khóc.

Và cả khu rừng chìm vào yên lặng.

Yên lặng đến tuyệt đối. Ông và mọi người không nghe thấy bất cứ thứ gì. Không tiếng chim, không tiếng dế, không một tiếng lá xào xạc trong gió. Ông thậm chí còn không nghe thấy tiếng mình thở. Cảm giác khu rừng đang nín lại trong sợ hãi.

Bất thình lình, người đàn ông đó tỉnh lại, hắn dễ dàng giật đứt đống dây trói quanh người và nhảy xuống đất. Ruột của hắn treo lủng lẳng ở bụng, trông như có ai đó đục một lỗ xuyên qua nó vậy. Một nửa đống ruột của gã đó đã biến mất hoàn toàn theo đúng nghĩ đen. Không có một ai, không một người phàm nào có thể sống với vết thương nặng như vậy được cả.

Cháu thấy ông sợ đến mức nào rồi chứ? Cháu có thấy đôi tay này vẫn run rẩy sau ngần đó năm, chỉ vì nghĩ về buổi tối hôm đó không? Nên thử tưởng tượng ông đã khiếp hãi tột độ thế nào khi con quỷ đó trừng mắt về phía ông. Mắt của hắn trợn ngược, như thể biết ông ở đâu. Ánh mắt đầy sát khí, nó khiến ông gần như ngất đi vì sợ. Sau đó hắn rít lên thứ âm thanh chói tai như hàng ngàn đứa trẻ đang hét thẳng vào màng nhĩ. Ông vẫn nhớ chân mình run cầm cập khi nhìn hắn đang gầm gừ.

Hắn bắt đầu điên cuồng chạy, chỉ chưa đầy một giây mà thứ đó đã chạy được nửa quãng đường về phía ông. Nhưng cũng nhờ hắn di chuyển đột ngột mà ông đã có lại được cảm giác và bắt đầu hành động. Bỏ hết súng, ba lô, bỏ hết mọi thứ, chỉ chạy, chạy thục mạng. Ông nhảy qua những tảng đá và rễ cây to mọc ngang rừng, chui dưới tán cây, băng qua những bụi cỏ dại, vấp ngã trong bóng tối, nhưng vẫn tiếp tục chạy. Đôi giày tại vũng bùn, để rồi ông tháo chúng ra và chạy bằng chân đất. Ông quay lại và liếc nhìn thứ đó đang nhảy xồ tới, ruột nó đập phành phạch vào đùi. Con quỷ đó, hắn đang cười, nụ cười rộng đến tận mang tai, như thể trò đuổi bắt này là thứ vui nhất mà nó từng có. Như thể hắn đang dành thời gian tận hưởng cuộc đi săn: “Chạy, chạy đi, chạy nữa đi”, chắc là hắn nghĩ vậy.

Rồi ông nghe thấy tiếng hét phía sau, hỗn loạn trộn lẫn với những tiếng rít lớn. Hắn xé tan đội tuần tra, từng người, từng người một, nát bét, cho đến khi còn mình ông.

Trong ngực ông như lửa đốt, tuyệt vọng trong từng hơi thở để cố gắng sống sót khi đôi chân bắt đầu lung lay. Ông biết mình chẳng còn đủ sức để chạy trốn khỏi con quỷ kia, nhưng ông vẫn có thể nấp khi tìm thấy một kẽ nứt được phủ đầy bởi rễ của những cây cổ thụ. Ông lập tức chui vào cái khe đó và ẩn mình trong bóng tối mà không hề nghĩ về rắn rết hay nhện độc đang chờ mình trong đó, ông chỉ muốn thoát khỏi cái thứ chết tiệt kia. Ông cuộn người lại, đầu gối chạm ngực, cảm thấy rõ trái  tim đập điên loạn như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chờ đợi, đợi cho thứ đó tìm thấy ông và kết thúc tất cả.

Rồi tiếng chân tiến đến gần, từ từ, thong thả, ông nghe từng chiếc lá nát vụn dưới đôi chân trần của hắn. Và hắn bắt đầu huýt sáo với giai điệu lạ lùng, như tiếng chim hát những bài thơ cho cánh rừng. Cây cỏ đổ rạp dưới chân hắn khi từng giọt máu đen nhỏ lã chã xuống mặt đất, nơi chỉ cách ông chưa đầy một tấc. 

Hắn gọi ông, bằng giọng của mẹ. Lúc đó cụ đã mất được 5 năm. Hắn nói với giọng nhẹ nhàng, ấm áp quen thuộc mà ông vẫn được nghe từ thuở bé. Hắn cười lớn khi không nghe được lời đáp lại. Lúc đó, ông đặt tay lên mũ, kéo xuống ngang mắt, cố gắng khóc bé nhất có thể. Tất cả đã chấm dứt, ông biết mình sẽ nằm lại mãi giữa khu rừng này.

Nhưng, không hiểu vì sao hắn lại không xé xác ông. Có lẽ hắn muốn để lại một người sống duy nhất, để kẻ đó kể lại những gì khủng khiếp đã xảy ra với bản thân và đội tuần tra. Ông không biết nữa, ông cũng chẳng biết con quỷ đó rời đi lúc nào. Cả đêm ở đó, run rẩy trong cái khe nhỏ. Thậm chí khi mặt trời lên, tắm cả khu rừng trong ánh nắng vàng, ông vẫn sợ đến mức không dám ra ngoài. Chỉ đến khi một đội tuần tra khác đi qua, ông mới cảm thấy đủ an toàn để kêu cứu. Ông được họ phải khiêng ông bằng cáng, mê sảng với nỗi sợ bao trùm, cơ bắp và cơ thể đều kiệt sức. Nhưng ông vẫn sống,…

Đó là lần gần nhất mà ông chạm mặt thứ đó. Nhưng không phải là lần duy nhất. Trong suốt thời gian ở chiến trường, ông nghe rất nhiều câu chuyện xung quanh nó. Từ trung đoàn, đến người dân, thậm chí quân Nhật cũng từng được chạm mặt. Con quỷ bất tử đó bắt chước giọng nói, giả vờ bị thương và xé nát mọi đội quân xấu số dám đến gần để kiểm tra. Hay là cách hắn đến với cháu vào ban đêm, khi cháu đang say giấc nồng, thì thầm những lời nói đầy thù hận vào tai trước khi hắn phanh cháu ra thành từng mảnh. Một số đội tuần tra đã phát hiện ra những người xấu số, những cái đầu bị treo trên ngọn cây với tay, chân được xếp theo những hình thù kỳ dị gần căn cứ. Lúc đó bọn ông sợ rằng sẽ bị tổn hại quân số vì thứ đó nhiều hơn là so với chiến đấu với quân Nhật. Và chắc chắn quân Nhật cũng sẽ nghĩ giống y như vậy. 

Tất cả những điều kinh khủng ông chứng kiến ở Miến Điện, từ việc ném bom, không kích, bệnh tật,… không có gì có thể so sánh với đêm hôm đó. Ông vẫn nhớ cảm giác yên tâm khi diễu hành đến Ragoon, cho dù bị bao vây bởi đạn dược và pháo kích, nhưng vẫn tốt hơn là ở lại khu rừng chết tiệt.

_____ 

Dịch bởi Page này dịch hết

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *