6.
Ngày 20 tháng 7 năm 2001. Trời quang.
Sàng lọc hiện trường vụ án.
Khám xét qua hiện trường, không thu được kết quả gì. Trải qua trận mưa lớn suốt nhiều giờ đồng, đến vệt bánh xe còn bị gột rửa sạch sẽ. Tôi có hơi ủ rũ, nhìn tâm trạng của đội trọng án cũng không khá hơn là bao. Phương pháp gây án khiến người ta sởn tóc gáy của hung thủ, hai lần liên tiếp ở cùng một địa điểm, cắt sống hai mạng người thành những miếng nhỏ cho đến chế.t, xong việc còn để lại lời nhắn khiêu khích, công bố với cảnh sát một cách rõ ràng rằng, hắn sẽ tiếp tục ra tay, hơn nữa người mà hắn muốn giế.t sẽ ở trong một phạm vi nào đó. Còn chúng tôi, chỉ biết khoanh tay đứng nhìn hắn tác oai tác quái mà thôi.
Thẩm Thư gọi những cảnh sát phụ trách vụ án tới, mở một cuộc họp phân tích tình hình vụ án ở ngay bên cạnh thi thể. Lúc này Trần Quảng đã rời đi, để lại tôi một mình phối hợp với đội trọng án.
Thẩm Thư nói: “Tuy đã phát sinh thêm một vụ án, thêm một người dân của thành phố bị hại, nhưng vụ án cho đến hiện tại đã dần sáng tỏ, tôi tin rằng, bất luận vụ án có phức tạp đến đâu, bất luận manh mối có thiếu thốn thế nào, chỉ cần kiên nhẫn điều tra thì cây kim trong bọc cũng có ngày lòi ra, hung thủ sẽ phải chịu tội trước pháp luật.” Cậu ta đang khơi dậy tinh thần quân sĩ, dừng lại hai giây rồi tiếp tục nói: “Trước mắt có thể xác định, đây là một vụ án giế.t người liên hoàn để báo thù. Hai nạn nhân khi còn sống tuy không qua lại, nhưng có thể khẳng định bọn họ quen biết nhau, hơn nữa còn từng gây thù chuốc oán với cùng một người. Chúng ta hãy lần theo manh mối này, chỉ cần tìm ra điểm chung giữa hai nạn nhân là sẽ có hy vọng tìm ra hung thủ. Hơn nữa, tòa soạn báo chiều Sở Nguyên cũng có người liên quan đến vụ án, người này nhất định cũng quen biết hai nạn nhân. Nếu có thể tìm ra người đó trước khi hung tủ ra tay, thì vụ án có thể coi là đã phá được một nửa.” Dưới ánh nắng ban mai, sắc mặt của Thẩm Thư hiện lên hơi nhợt nhạt. Tôi hiểu phản ứng của cậu ta, mỗi lần gặp phải sự kích động, lo lắng, hưng phấn là mặt cậu ta lại tái mét, chỉ có điều là không rõ lắm nên người khác nhìn vào cứ tưởng cậu ta đang rất bình thản, chứ thực ra thâm tâm cậu ta đang bập bùng sóng gió.
Quản Nguy đưa ra ý kiến: “Trong quá trình điều tra trước đây đã phát hiện ra Lâm Mỹ Khuyên đang giấu diếm chúng ta điều gì đó. Nếu cô ta quen Tô Nam, thế thì quá trình hai người họ quen biết nhau hẳn không trong sáng, hoặc họ đã từng làm gì đó mờ ám cùng nhau. Cho nên chúng ta cần chuẩn bị tư tưởng tốt, rằng cái người ở trong toàn soạn báo chiều Sở Nguyên ấy, cũng xuất phát từ cùng một lý do, sẽ từ chối hợp tác với phía cảnh sát. Vì vậy tôi nghĩ, liệu có nên tiết lộ thông tin cụ thể của hai nạn nhân và một phần tình tiết vụ án cho nội bộ báo chiều Sở Nguyên biết hay không? Nếu có ai cảm thấy bản thân gặp nguy hiểm, có lẽ sẽ chủ động tìm đến cảnh sát để hợp tác.”
Thẩm Thư đồng ý đáp: “Tôi cũng có suy nghĩ tương tự, đây có thể là một biện pháp hiệu quả, nhưng trước hết cứ cho tiếp xúc thẳng mặt với báo chiều Sở Nguyên đã, rồi tùy theo hoàn cảnh mà định. Lão Quản, quân chúng ta sẽ chia làm hai ngả, chú và Mã Văn Siêu sẽ đến báo chiều Sở Nguyên một chuyến, lão Triệu dẫn hai người đến nhà nạn nhân để theo dõi tình hình, tôi, Vu Ngân Bảo và bác sĩ pháp y Thục Tâm của Sở thành phố sẽ đến thẩm tra đối chiếu hiện trường. Những người khác trở về đội trọng án chờ lệnh, sẵn sàng ứng chiến.”
Hiện trường đầu tiên chúng tôi cho thẩm tra đối chiếu vẫn là tòa luyện kim của trường Đại học Giang Hoa. Giống với vụ án lần trước, sinh viên ngồi trên lớp nhìn ra ngoài cửa sổ thì phát hiện ra thi thể. Hung thủ có vẻ muốn khuôn mẫu hóa quá trình phạm tội của hắn, nhưng mà, động cơ giế.t người báo thù thì có thể hiểu, thủ đoạn tàn nhẫn có thể do một lý do mà hắn tự cho là chính đáng, gây án vào đêm mưa là để xóa sạch dấu vết phạm tội, nhưng tại sao lại chọn cùng một địa điểm để gây án chứ? Điều này không phù hợp với tâm lý tội phạm thông thường. Đa số tội phạm, bao gồm sát thủ liên hoàn, đều sẽ tránh gây án ở cùng một nơi, nhẽ nào tên hung thủ này gan dạ tới mức không còn biết sợ? Không, tôi không cho là vậy, hung thủ có một tình cảm đặc biệt với nơi này, nhất định là có lý do của hắn.
Trưởng ban bảo vệ Từ Kiếm Minh của Đại học Giang Hoa đã đứng trước cổng trường đợi chúng tôi từ sớm. Thực tế thì anh ta luôn theo dõi hiện trường vụ án. Là một bảo vệ của trường, hẳn anh ta cũng lo lắng sợ sệt trước vụ án xảy ra ngay bên ngoài khu tường bao. Sắc mặt Từ Kiếm Minh không được tốt, râu ria lởm chởm, sau khi gặp mặt cũng chẳng chịu nói năng, dẫn chúng tôi tới thẳng một phòng học ở tòa luyện kim.
Phòng học của sinh viên phát hiện ra thi thể lần này nằm ở tầng 5. Trên thực tế, từ tầng 3 đổ lên, từ những ô cửa sổ hướng ra bức tường tôn đều có thể thấy rõ hiện trường vụ án. Thẩm Thư đứng ở cửa sổ nhìn ra, không nói gì, những người khác cũng im lặng theo, cảm giác yên tĩnh nhất thời khiến cho người ta cảm thấy như bị đè nén. Có thể thấy, vụ án giế.t người liên hoàn đáng sợ này đã đem đến cho mỗi người ở đây một áp lực khó nói thành lời.
Từ Kiếm Minh tiên phong phá vỡ sợ tĩnh lặng, nói: “Tôi xin nói mấy câu của một người không trong ngành. Nhìn vào cách thức hung thủ ra tay, có vẻ hắn không muốn che giấu thi thể, hắn sắp xếp như vậy rõ ràng đã có sự chuẩn bị. Hung thủ dường như hiểu rõ khuôn viên trường Đại học Giang Hoa, thậm chí đã từng thâm nhập vào phòng học của tòa luyện kim, liệu có khi nào hung thủ chính là người trong trường không?”
Thẩm Thư đáp: “Đại học Giang Hoa không phải đơn vị bảo mật, đủ hạng người có thể ra vào nơi đây, hung thủ trăm phương ngàn kế để gây án, nhất định đã đến khám xét địa hình từ trước, nên không thể độc đoán cho rằng hắn có liên hệ với Đại học Giang Hoa.” Cậu ta dừng lại hai giây, làm ra vẻ ngẫm nghĩ, nói: “Hung thủ hai lần gây án, đều chọn cùng một địa điểm, điều này rất bất thường, không phù hợp với tâm lý tội phạm thông thường” —— Cậu ta và tôi cùng nghĩ đến một thứ —— “Cho nên tôi cho rằng, đây không chỉ là hoang tưởng cá nhân, mà còn do nơi này có một ý nghĩa đặc biệt đối với hắn. Từ Kiếm Minh, tôi muốn giao cho anh một việc, lần trước anh có nói mảnh đất hiện trường vụ án từng là tài sản của trường, anh có thể làm giúp tôi một phần tài liệu, bao gồm những tòa kiến trúc từng được xây dựng trên mảnh đất đó, có những ai đã từng ở đó, đã có những sự việc lớn nào từng xảy ra, và mảnh đất ấy đã được chuyển nhượng khi nào, hiện do công ty nào quản lý, tại sao lại bỏ hoang lâu đến vậy, càng chi tiết càng tốt. Đây không phải tài liệu nhà nước, việc thu thập sẽ khá lắt nhắt, anh là người của trường, làm việc này sẽ tiện hơn chúng tôi, cho nên đành nhờ anh.”
Từ Kiếm Minh đáp lại: “Không vấn đề, hỗ trợ cảnh sát điều tra cũng là một phần trách nhiệm của tôi.” Thẩm Thư nói: “Vẫn còn một chuyện, ở hiện trường có dấu vết chứng minh, hung thủ rất có thể sẽ tiếp tục ra tay. Dựa vào đặc điểm gây án của hắn để phán đoán, tên hung thủ bị hoang tưởng cực đoan và có lòng báo thù mãnh liệt này sẽ không dễ dàng thay đổi cách thức và địa điểm gây án, cho nên cảnh sát không thể bị động đứng chờ, cần phải nghĩ cách để ngăn hắn lại. Nhưng hiện trường lại đang ở mùa mưa, bảo cảnh sát hễ khi nào mưa lại tới cảnh giới thì không được hiện thực cho lắm. Hiện trường vụ án lại nằm ở góc chế.t máy quay, để hoang lâu ngày, gây ảnh hưởng không tốt cho nhà trường. Tôi đang tính sẽ cho lắp đèn đường và máy ghi hình ở khu vực bên trong tường tôn, cái này tôi có thể xin ý kiến cảnh sát giao thông và các cơ quan ban ngành của thành phố, đầu ra của máy ghi hình sẽ được lắp ở phòng bảo vệ của trường Đại học Giang Hoa, như vậy sẽ tăng khối lượng công việc cho các anh, không biết anh có ý kiến gì không?”
Từ Kiếm Minh suy nghĩ rồi đáp: “Tôi đồng ý. Cách làm này ít nhất cũng khiến hung thủ sợ hãi, không dám ra tay, đồng thời cũng có lợi cho công tác trị an của trường. Chuyện đó cũng chẳng có gì to tát, tự tôi có thể làm chủ, các anh đến lắp lúc nào cũng được, ban bảo vệ sẵn sàng hợp tác.”
Rời khỏi Đại học Giang Hoa, chúng tôi lại lái xe đến trường Trung học số 4. Đến thời điểm hiện tại, thầy trò trường Trung học số 4 và người nhà Lâm Mỹ Khuyên vẫn trời yên biển lặng, không hề hay biết cô ta đã bị hại, thậm chí không ai để ý đến sự mất tích của cô ấy. Biết chuyện Lâm Mỹ Khuyên bị giế.t chế.t, hiệu trưởng Lưu Văn Cường sợ không nhấc mông lên được, đầu toát mồ hôi hột, miệng lắp ba lắp bắp, không biết đang nói với chúng tôi hay tự nói với chính mình: “Hung thủ quả nhiên không nói dói, quả nhiên ứng lên người cô ấy, ứng lên người cô ấy.” Thì ra hôm qua Lâm Mỹ Khuyên đã đến khách sạn Ngọc Bình ở ngoại ô để tham gia hội nghị giáo viên Trung học toàn tỉnh kéo dài ba ngày, sau khi kết thúc hội nghị thì không ai trông thấy cô ta nữa, chủ trì hội nghị cho rằng cô ta đã về nhà để qua đêm, còn người nhà Lâm Mỹ Khuyên lại cho rằng cô ta đang ở khách sạn. Tìm hiểu các bên xong, chúng tôi lại lái xe tới khách sạn Ngọc Bình.
Khách sạn Ngọc Bình nằm ở ngoại ô phía Tây thành phố Sở Nguyên, tọa lạc trên ngọn núi Ngọc Bình, kiến trúc chính của khách sạn không hề hùng vĩ, nhưng sân vườn lại rất lớn, có hòn non bộ, nước chảy róc rách, cây cối um tùm. Nhìn thấy cảnh vật xung quanh chúng tôi mới hiểu ra, ở trong cái sân vườn này, nhân lúc màn đêm bao phủ, nếu Lâm Mỹ Khuyên đi lại một mình thì hung thủ sẽ có rất nhiều cơ hội để ra tay. Nhưng hung thủ có thể bám theo cô ta đến tận đây, chắc hẳn phải hiểu rất rõ hành tung của cô ấy, hoặc là người quen của cô ta, hoặc đã theo dõi cô ta từ rất lâu mới đợi đến cơ hội tốt nhất để ra tay. Hung thủ không những tính toán tỉ mỉ, mà còn rất kiên nhẫn.
Thẩm Thư đột nhiên hỏi Vu Ngân Bảo: “Nếu là cậu, để bắt một người phụ nữ trung niên cơ thể không hề thấp bé, hành động nhanh nhẹn ở trong sân vườn này lên xe mà không để người khác phát hiện thì cần thời gian bao lâu? Tự tin được bao nhiêu phần trăm?” Vu Ngân Bảo cười ngại ngùng: “Em cơ bản không làm được, người phụ nữ đó sẽ chống cự và hô cứu đúng không? Chỉ cần phát ra động tĩnh, chậm chễ một phút thôi là cũng bị người khác phát hiện ra rồi.” Thẩm Thư gật đầu: “Chính vậy, các cậu được thông qua huấn luyện hình sự còn không làm được thì người bình thường lại càng không thể. Cho nên có thể phán đoán hung thủ nhất định phải được huấn luyện đặc biệt, ví dụ như bộ đội, cảnh sát hay vệ sĩ chẳng hạn, hơn nữa tuổi không được quá cao mới có thể khống chế được nạn nhân trong phút chốc mà không để lại chút khoảng trống phản kháng nào. Nhưng kẻ như vậy tại sao lại có thù oán với hai người U50, lại làm trong lĩnh vực văn hóa giáo dục được nhỉ? Đến người nhà, bạn bè và đồng nghiệp của nạn nhân cũng không tìm ra nguyên cớ, thật khiến người ta khó hiểu.” Tôi đáp: “Có thể trên người Tô Nam và Lâm Mỹ Khuyên có một mặt nào đó mà người ngoài không hay biết, trừ phi tìm ra được bí mật mà họ che giấu, nếu không vụ án này mãi mãi không có lời giải.”
7.
Ngày 20 tháng 7 năm 2001. Trời quang.
Tòa soạn báo chiều Sở Nguyên.
Trong lúc chúng tôi thẩm tra đối chiếu hiện trường, Quản Nguy và Mã Văn Siêu đã đến tòa soạn báo chiều Sở Nguyên. Tòa soạn báo này nằm ở trụ sở nhật báo Sở Nguyên, là tòa soạn báo con của nó, cũng là tờ báo đô thị có số lượng phát hành lớn nhất Sở Nguyên. Tổng biên tập Tần Thư Kỳ kiêm ủy viên ban biên tập nhật báo Sở Nguyên, dưới trướng có hơn 200 biên tập viên và hơn 100 nhân viên quảng cáo.
Nhằm tránh thông tin bị lan truyền, Quản Nguy chỉ kể cho mỗi Tần Thư Kỳ nghe về tình hình vụ án, đồng thời miêu tả cho ông ấy về chiếc logo được tìm thấy trên người Lâm Mỹ Khuyên. Quản Nguy nói: “Trước mắt xác định, hung thủ đã để lại lời nhắn trên thi thể, chỉ định nạn nhân tiếp theo, do đó chúng tôi cần phải tìm ra đối tượng gây án của hung thủ để tiến hành bảo vệ, cũng có thể nhờ đó mà lật tẩy được bộ mặt của kẻ sát nhân.”
Tần Thư Kỳ nghe xong kinh hồn bạt vía, nói thẳng: “Tôi đã nghe về vụ án Tô Nam bị giế.t hại, báo chiều cũng đã đưa tin, đâu ai ngờ vụ án lại phức tạp đến thế, lại còn dính líu tới cả tòa soạn báo. Không biết hung thủ sẽ nhắm vào một đơn vị tòa soạn để ra tay ngẫu nhiên, hay là đã có mục tiêu cụ thể?” Tần Thư Kỳ hỏi vậy có lẽ để tính xem phần trăm tai họa ập lên đầu ông ta.
Quản Nguy đáp: “Theo chúng tôi phán đoán, hung thủ đã có đối tượng xác định, tạm thời không uy hiếp đến người khác. Tuổi của hai nạn nhân trước đều rơi vào trên dưới 50, có thể coi là điểm chung, nhằm tăng hiệu suất khởi kiến, chúng tôi đặt giả thuyết nạn nhân tiếp theo cũng nằm trong độ tuổi này để làm trọng điểm điều tra.”
Phản ứng bản năng của Tần Thư Kỳ là: “Tháng trước tôi vừa tròn 51 tuổi.” Quản Nguy thẳng thừng hỏi: “Anh có quen biết Tô Nam và Lâm Mỹ Khuyên không?” Tần Thư Kỳ run rẩy đáp: “Lâm Mỹ Khuyên thì không, nhưng Tô Nam thì cũng coi là có quen biết, đã cùng ăn với ông ấy hai lần, nhưng đều ngồi chung với rất nhiều người, chưa từng nói chuyện riêng với ông ta.” Quản Nguy không ngừng quan sát biểu cảm của Tần Thư Kỳ để xác minh xem liệu ông ta có nói dối hay không. Làm cảnh sát hình sự đã lâu, đây dường như đã trở thành căn bệnh nghề nghiệp của ông ta, lúc nào cũng nghi ngờ người khác, đến khi xác nhận họ vô tội mới thôi cảnh giác. Quản Nguy thấy phản ứng của Tần Thư Kỳ không giống như đang diễn, liền nói: “Anh với ông ta chỉ quen biết sơ sơ thì không cần phải quá lo lắng. Trước mắt đừng để lộ nội dung cuộc nói chuyện giữa hai chúng ta, tốt nhất hãy dùng cách hòa nhã để tìm ra đối tượng của hung thủ, như vậy chúng ta mới có đất để xoay xở.”
Báo chiều Sở Nguyên ra đời không lâu, nhân viên trong tòa soạn còn khá trẻ, chỉ có vài người là ở độ tuổi 50, ngoại trừ Tần Thư Kỳ ra thì còn hai phó chủ biên, biên tập, chủ nhiệm văn phòng, lái xe và một vài nhân viên quảng cáo, trong đội ngũ phóng viên chỉ có một người tầm 50 tuổi, tên là Đào Anh, chức vụ phóng viên trưởng. Quản Nguy liền hỏi: “Tôi có nghe nước người ta có Chánh án, kỹ sư trưởng, sao bên anh lại có cả phóng viên trưởng nữa vậy?” Tần Thư Kỳ cười đáp: “Đào Anh là người bên nhật báo điều xuống, có thâm niên trong nghề, đồng trang lứa với ông ấy cũng lên đến chủ nhiệm bộ môn rồi, nghiệp vụ ông ấy hơi kém, không thể leo lên chức cao hơn, nên chúng tôi phong cho ông ấy làm phóng viên trưởng để an ủi phần nào.” Tần Thư Kỳ có gì thì nói nấy, là một người thẳng tính, cảnh sát hình sự rất thích làm việc với những người như này.
Theo tờ danh sách mà Tần Thư Kỳ cung cấp, Quản Nguy và Mã Văn Siêu đã cho tiếp xúc với từng người một, nhưng chưa thể xác định được mục tiêu trọng điểm. Tô Nam khi còn sống hay giao lưu, số người quen biết ông ta trong tòa soạn báo không ít, nhưng đều là quen biết sơ sơ, không hiểu rõ về cuộc sống cá nhân của ông ta. Còn Lâm Mỹ Khuyên khi còn sống chỉ giao lưu bên trong trường, không qua lại với cánh truyền thông. Quản Nguy không nghĩ ra được cách nào tốt hơn, bèn nghe theo gợi ý của Thẩm Thư, tiết lộ một phần tình tiết vụ án cho họ nghe, mời bọn họ hợp tác với phía cảnh sát, nghe ngóng từ miệng đồng nghiệp, tranh thủ tìm ra người quen biết sâu với Tô Nam và Lâm Mỹ Khuyên. Thực ra lúc này Quản Nguy có một cảm giác mãnh liệt, rằng đối tượng mà hung thủ ngắm đến đã nhận thức được nguy hiểm của bản thân, nhưng vì một lý do nào đó không thể tiết lộ ra bên ngoài mà người ấy vẫn chưa chịu mở miệng. Điều cảnh sát cần làm, là phải tìm ra người đó trước khi người đó bị giế.t hại, đả thông tư tưởng, để người đó hợp tác với cảnh sát. Đây là cuộc đọ sức về độ kiên trì, trí tuệ và sức chịu đựng tâm lý, có điều cảnh sát ở ngoài sáng, bọn chúng ở trong tối, cuộc đọ sức này không hề công bằng.
Ngày này qua ngày khác, vụ án vẫn chưa tìm thấy một tia hy vọng nào. Hung thủ cũng án binh bất động, một tháng có 5 trận mưa gió đan xen, nhưng đều bình an vô sự. Có thể những cột đèn đường và máy ghi hình được lắp đặt ở hiện trường đã phát huy tác dụng, có thể hung thủ đã ngửi thấy mùi nguy hiểm nên tạm thời ẩn mình. Thế nhưng Thẩm Thư và những đồng nghiệp khác không dám ngơi lưng dù chỉ một phút, lúc nào cũng trong trạng thái sẵn sàng chuẩn bị. Thẩm Thư tin rằng, hung thủ sẽ còn tiếp tục gây án, hơn nữa sẽ ở cùng một địa điểm và với cùng một cách thức, sau đó sẽ ký tên hắn lên hiện trường. Tên hung thủ ngạo mạn và hoang tưởng này, chỉ trong những chữ ký độc đáo mà hắn để lại trên người nạn nhân, mới có thể tìm được khoái cảm.
Trong những ngày này, đội trọng án dưới sự hỗ trợ của đồn cảnh sát đã cho điều tra những người trong phạm vi thành phố có những đặc trưng dưới đây: Là nam, tuổi từ 25 đến 45, cơ thể cường tráng, được huấn luyện chịu đòn hoặc từng là bộ đội, cảnh sát; tình trạng kinh tế tốt, chí ít có một chiếc xe có thể sử dụng bất cứ lúc nào; sống một mình, hoặc có một căn nhà để không. Nhưng số lượng được tổng hợp từ danh sách mà các đồn cảnh sát báo về lên tới hàng nghìn người. Theo kinh nghiệm của đội trọng án, nếu tính cả những đối tượng bị bỏ lọt do một vài nguyên nhân nào đó, số lượng ít nhất còn phải tăng thêm 30%. Công việc của cảnh sát hình sự, đó là tìm ra nghi phạm trong số đó, lần lượt điều tra và loại bỏ từng người một. Đây là thủ đoạn vụng về, rườm rà và phiền toái thường thấy khi phá những vụ án không manh mối, tội phạm ra tay ngẫu nhiên như thế này. Cũng giống như câu chuyện Thẩm Thư đi dạo hai vòng là tóm được tên bắt cóc, bắt buộc phải hội tụ đủ yếu tố thiên thời địa lợi nhân hòa mới xong.
Việc theo dõi bảo vệ nhóm mục tiêu của báo chiều Sở Nguyên không lúc nào ngơi nghỉ. Trong quá trình đi điều tra, Quản Nguy không ngừng tiết lộ và cập nhập tình tiết của vụ án, gia tăng áp lực cho họ. Ông ta tin rằng, trước sự uy hiếp bởi cái chế.t có thể ập đến bất cứ lúc nào, không một ai thần kinh đủ mạnh để có thể thờ ơ.
Cuối cùng, trong một buổi chiều sau nửa tháng kể từ ngày Lâm Mỹ Khuyên gặp nạn, một cuộc điện thoại bí ẩn được gọi đến phòng trực ban của đội trọng án, chỉ đích danh muốn được đối thoại với Thẩm Thư. Giọng nói ở đầu dây bên kia gấp gáp, chói tai, mơ hồ nghe chẳng rõ, không biết là của nam hay nữ, cũng không đoán được độ tuổi, có lẽ đã sử dụng thiết bị đổi giọng. Sau khi Thẩm Thư nhấc máy, giọng nói đó liền khẩn thiết hỏi: “Tại sao các anh lại cho theo dõi báo chiều Sở Nguyên, có phải hung thủ đã để lại lời nhắn, sẽ giế.t ai đó trong tòa soạn này?” Do tình tiết vụ án vẫn chưa được công khai ra bên ngoài, nên người này chỉ dựa vào những gì mà cánh nhà báo thêm mắm thêm muối và hành động của cảnh sát để mà dự đoán.
Thẩm Thư im lặng hai giây, cố giành lại quyền chủ động đối thoại, đồng thời ra hiệu cho cảnh sát trực ban lập tức liên hệ với Cục viễn thông để truy ra nguồn gốc số điện thoại rồi mới đáp: “Anh/chị yên tâm, chỉ cần anh/chị đồng ý hợp tác với phía cảnh sát, chúng tôi có thể đảm bảo an toàn cho anh/chị một trăm phần trăm. Anh/chị không cần phải lo lắng……” Đối phương vội ngắt lời: “Chỉ cần anh trả lời tôi, có đúng hung thủ sẽ tiếp tục giế.t người, và người đó ở trong báo chiều Sở Nguyên hay không?” Thẩm Thư đáp: “Dựa vào những gì nắm được trước mắt, đúng là như vậy, chúng tôi……” Cậu ta chưa dứt lời thì đối phương đã cúp máy, cùng lúc cảnh sát trực ban cũng tra ra được cuộc gọi ấy được thực hiện từ bốt điện thoại công cộng.
Thẩm Thư cầm lấy ống nghe, buồn tiu nghỉu. Người này rất có thể là mục tiêu mà hung thủ ngắm đến, anh (cô) ta chủ động gọi đến, chứng tỏ đã nhận thấy nguy hiểm đang cận kề, cho nên anh (cô) ta rất có khả năng biết được hung thủ là ai. Trên đời này còn có gì quý hơn mạng sống của mình đây?
8.
Ngày 7 tháng 8 năm 2001. Trời mưa lớn.
Bệnh viện Đồng Trạch thành phố Sở Nguyên.
Khi vụ án bước vào giai đoạn căng thẳng thì bỗng truyền đến một tin mà không ai ngờ tới, trưởng ban bảo vệ Từ Kiếm Minh trong lúc đi tuần tra xung quanh hiện trường vụ án đã bị tấn công, hơn nữa còn bị bắn.
Lại là một đêm bấp bênh. Mưa buốt, gió lạnh, bầu trời tối đen như mực.
Từ Kiếm Minh bị súng bắn vào đằng sau cánh tay trái, tuy má.u chảy không ngừng, vô cùng đau đớn nhưng may là vẫn còn nhận thức, hành động còn nhanh nhẹn, anh ta dùng tay phải để bịt vết thương, chạy ra chỗ sáng trên đường, bắt một chiếc taxi đến bệnh viện Đồng Trạch gần nhất, đồng thời ngồi trên xe báo cáo lại tình hình cho Thẩm Thư.
Thẩm Thư vừa lên giường đi ngủ thì bị tiếng chuông điện thoại làm tỉnh giấc, nghe kể xong cũng cảm thấy kinh ngạc, liệu việc Từ Kiếm Minh bị tấn công có liên quan đến vụ án giế.t người liên hoàn hay chăng? Không kịp nghĩ nhiều, cậu ta lập tức thông báo cho đội trọng án mau chóng đến hiện trường vụ bắn súng, do Quản Nguy phụ trách. Theo quy định, tất cả những vụ án liên quan tới súng phải được báo cáo lên cấp trên, cậu ta lần lượt gửi điện báo cho phòng khoa học kỹ thuật của Sở thành phố và Phó giám đốc Sở phụ trách điều tra hình sự để yêu cầu hỗ trợ.
Thẩm Thư mặc xong quần áo, chạy xuống lầu khởi động xe, đạp mạnh chân ga, phóng thẳng đến bệnh viện nơi Từ Kiếm Minh đang nằm. Lúc này đã gần 1 giờ sáng, mưa gió đan xen, trên đường gần như không còn người và xe qua lại, cậu ta chỉ mất chưa đến 10 phút để có mặt ở bệnh viện.
Cuộc phẫu thuật vẫn đang được tiến hành. Nhưng qua lời chẩn đoán của bác sĩ Hứa Danh Vũ, Từ Kiếm Minh không bị thương nghiêm trọng, vết thương trên tay trái không chạm vào xương, chưa thấy đầu đạn, không biết có phải bị bắn hay không. Do động mạch ở tay trái bị xuyên thủng gây mất nhiều má.u, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thẩm Thư thở dài một cái, dạo này án mạng dồn dập, thần kinh cậu ta đã căng như dây đàn, nếu giờ xảy ra thêm vụ giế.t người bằng súng nữa thì không biết xoay xở ra sao. Hứa Danh Vũ đưa cho Thẩm Thư một xấp ảnh, đó là những tấm ảnh miệng vết thương của Từ Kiếm Minh được chụp lại theo yêu cầu của Thẩm Thư. Người chụp là một cảnh sát được cài cắm trong bệnh viện nên những tấm ảnh được chụp ra đều rất chuyên nghiệp.
Tôi nhận được chỉ thị cũng vội vã chạy đến bệnh viện. Sở không cấp xe cho tôi, đã thế trong cái đêm thời tiết ác liệt này đến bóng dáng của một chiếc taxi cũng không thấy, đợi khi tôi đến đến được bệnh viện trong bộ dạng thê thảm thì phát hiện ra sư phụ Trần Quảng, Giám đốc Sở điều tra Cao Đại Hùng và Thẩm Thư đã đứng ở đó đợi rồi. Bọn họ không có tâm trạng để ý đến tôi, đang đứng quây quanh bác sĩ để hỏi thăm về tình hình ca phẫu thuật của Từ Kiếm Minh.
“Đã cho nối mạch má.u, khâu miệng vết thương, sau khi được truyền má.u bệnh nhân đã chuyển biến tốt. Cũng may là khả năng tự cứu của anh ta tốt, nếu chậm thêm 10 phút thì mọi chuyện sẽ rất khó nói.” Bác sĩ tường thuật lại. Thẩm Thư vội hỏi: “Hiện tại có thể hỏi bệnh nhân vài câu được không?” Bác sĩ cau mày, suy nghĩ một hồi rồi đáp: “Phẫu thuật được tiến hành gây mê cục bộ, bệnh nhân tỉnh táo, tinh thần khá tốt, nhưng vừa trải qua một trận kinh hãi lại bị còn bị thương, cộng với việc mất nhiều má.u, cơ thể rất suy yếu, các anh cố gắng hỏi ngắn gọn, lựa những câu quan trọng nhất để hỏi là được rồi.”
Từ Kiếm Minh quả là một người đàn ông mạnh mẽ, từ lúc trúng đạn, tự cứu đến phẫu thuật gây mê cục bộ, anh ta không hề rơi vào hôn mê, cũng không rên rỉ hay chửi bới hung thủ, cứ nằm trên giường bệnh một cách hết sức bình tĩnh, ngoại trừ sắc mặt nhợt nhạt thì không nhận ra có điểm gì khác thường.
Thẩm Thư ngồi xuống ghế ở sát đầu giường anh ta, nói: “Không có gì nguy hiểm.” Từ Kiếm Minh vẫn đang được truyền má.u, không thể cử động, bĩu môi cười gượng.
Từ Kiếm Minh tường thuật lại quá trình bị tấn công. Do anh ta ở trong khuôn viên trường Đại học Giang Hoa, từ sau khi xảy ra hai vụ án, cứ đêm nào mưa, chỉ cần rảnh rỗi là anh ta sẽ đến mảnh đất bên trong tường tôn để thám thính. Anh ta không hy vọng mình có thể tóm được tên hung thủ bằng cách này, chỉ cần khiến hắn phải dè chừng, hoặc nếu may mắn, có thể kịp thời ngăn chặn một sinh mạng vô tội bị giế.t. Gần nửa đêm hôm qua, mưa càng lúc càng to, những hạt mưa bị gió lớn cuốn theo rơi lộp độp trên khung cửa sổ khiến anh ta cảm thấy lòng dạ rối bời, không sao ngủ được. Cuối cùng anh ta khoác áo mưa, đi ra chỗ tường tôn để xem. Dưới ánh đèn đường yếu ớt, anh ta không phát hiện ra điều gì khác thường, định bụng sẽ quay trở về. Chính vào lúc ấy, dựa vào linh cảm dự đoán nguy hiểm được anh ta tôi rèn qua nhiều năm quân ngũ, anh ta cảm thấy như có ánh mắt đang lén nhìn mình từ phía sau, lúc này toàn thân anh ta được phơi bày dưới quầng sáng của ánh đèn đường. Trong cơn nguy cấp, anh ta không kịp nghĩ nhiều, dựa vào bản năng lao như bay ra cạnh bức tường tôn. Cùng lúc, một tiếng súng vang lên nặng trĩu, tay trái đau nhói, anh ta biết mình đã trúng đạn rồi. Anh ta lấy tay phải bịt vết thương lại, ngăn không cho má.u chảy ra, cố giữ cho cái đầu tỉnh táo, men theo tường tôn để di chuyển. Lúc này anh ta đã ra ngoài vùng sáng của đèn đường, tin chắc hung thủ không trông thấy mình nữa, với lại đã có tường tôn che chắn nên khá an toàn.
Tiếng mưa tiếng gió che giấu hơi thở của hai người, thời gian giằng co chỉ kéo dài có mười mấy phút nhưng Từ Kiếm Minh lại thấy nó dài như một đêm. Toàn thân ướt sũng mồ hôi, tim đập thình thịch, một áp lực vô hình đè nén khiến anh ta không sao thở được. Có lẽ tên hung thủ còn chịu một áp lực lớn hơn nên đành bỏ cuộc trước, Từ Kiếm Minh lờ mờ thấy được một bóng người đội áo mưa nhấp nháy dưới ánh đèn, đột nhiên biến mất, tiếng chân rất nhẹ lúc gần lúc xa. Cái bóng có dáng người bình thường, Từ Kiếm Minh không những không trông thấy ngũ quan trên khuôn mặt, thậm chí đó là nam hay nữ anh ta cũng không rõ. Sau khi chắc chắn hắn đã đi xa, Từ Kiếm Minh mới mò ra ngoài đường, bắt xe rồi đi đến viện.
Thẩm Thư nghe Từ Kiếm Minh kể lại, lòng bàn tay toát mồ hôi hột. Cậu ta biết hoàn cảnh lúc đó của Từ Kiếm Minh nguy hiểm đến thế nào, nếu trong quá trình giằng co anh ta bị yếu tâm lý, rất có thể sẽ ăn ngay một viên đạn mà chế.t. Kẻ cầm súng đó là ai? Với tên sát thủ liên hoàn kia liệu có phải cùng một người? Tại sao hắn lại biết Từ Kiếm Minh sẽ xuất hiện ở đó? Nhẽ nào tên sát thủ liên hoàn đang chuẩn bị gây án thì vô tình chạm mặt Từ Kiếm Minh nên mới nổ súng giế.t người? Hay cách phòng vệ của Từ Kiếm Minh đã gây cản trở cho hung thủ, khiến hắn ta nổi giận?
Một chuỗi câu nghi vấn xuất hiện trong đầu Thẩm Thư, khiến đầu óc cậu ta rối bời. Cậu ta hỏi Từ Kiếm Minh: “Cứ đêm nào mưa là anh lại đến hiện trường án mạng để tuần tra, việc này có ai biết không? Có khi nào một kẻ nào đó có thù oán với anh đã mai phục ở đó từ trước?” Từ Kiếm Minh lắc đầu: “Tôi không nghĩ vậy. Tuy cái nghề này của chúng tôi, bình thường đắc tội với không ít người, nhưng ban bảo vệ không như đội trọng án, chưa phá một vụ đại án nào, chỉ xử lý mấy vụ trộm cắp lặt vặt. Dù nói gì tôi cũng không tin là bọn họ lại cả gan cầm súng giế.t người. Mảnh đất đó bình thường không có ai lui tới, việc tôi đi tuần tra cũng không nói cho ai biết, nên khả năng cao hắn chính là tên sát thủ liên hoàn kia.”
Nắm được tình sự việc, Thẩm Thư dặn dò Từ Kiếm Minh hãy nghỉ ngơi dưỡng sức rồi lui ra khỏi phòng. Anh ta tường thuật lại một lượt cuộc đối thoại giữa hai người cho Giám đốc Sở điều tra Cao Đại Hùng nghe, rồi đưa những tấm ảnh chụp vết thương của Từ Kiếm Minh cho Trần Quảng, hy vọng ông ta có thể tìm ra được chút manh mối. Lúc đó tôi đang đứng cạnh Trần Quảng, đưa tay nhận lấy xấp ảnh, Trần Quảng trợn mắt nhìn tôi, nhét xấp ảnh vào trong túi xách: “Cái này liên quan đến án dùng súng, để thầy giám định là được rồi.” Thầy ấy là sư phụ kiêm lãnh đạo, đã nói như vậy, tôi chỉ biết vâng lệnh.
Lúc này Quản Nguy gọi đến từ hiện trường vụ bắn súng để báo cáo, không tìm thấy vỏ đạn, hoặc là đã rơi ở một chỗ nào đó không dễ phát hiện, hoặc là hung thủ đã nhặt đi. Do mưa lớn vẫn chưa dứt, hiện trường không để lại bất kỳ một manh mối nào. Ngoài ra cũng đã trích xuất camera từ phòng giám sát của ban bảo vệ trường Đại học Giang Hoa, trong đoạn ghi hình chỉ có thể lờ mờ thấy được bóng của Từ Kiếm Minh trong vỏn vẹn mấy giây mà không phát hiện thêm người nào khác. Giám đốc Sở điều tra Cao Đại Hùng là người nóng nảy, nghe báo cáo xong lấy tay đấm vào tường, tức giận nói: “Lại không có chút manh mối nào, tức chế.t đi được.” Cũng khó trách Cao Đại Hùng sốt ruột, vụ án dùng súng không có manh mối thì không thể gộp vào điều tra cùng vụ giế.t người liên hoàn kia, nhân lực đội trọng án vốn đã căng thẳng, nếu như phân tán cảnh lực ra thì chẳng khác gì giật gấu vá vai.
Tuy không thể gộp hai vụ án làm một, nhưng trong lòng Thẩm Thư hiểu rõ, hai vụ án này hẳn phải có liên hệ với nhau, phá giải được một cái, thì cái còn lại cũng được tháo gỡ. Hung thủ vụ bắn súng rõ ràng là nhắm vào Từ Kiếm Minh, không những chuẩn bị chu đáo mà kế hoạch được lên rất cẩn thận, nắm rất rõ hành tung của Từ Kiếm Minh và hoàn cảnh địa lý của hiện trường gây án. Điều này có thể nhận ra từ việc hắn mai phục trong đêm mưa, gây án xong không quên nhặt vỏ đạn, hơn nữa còn tránh được góc quay của camera.
Vết thương của Từ Kiếm Minh đã được xử lý, tôi và Trần Quảng ở lại bệnh viện cũng chẳng giúp được gì nên đành rời đi, Trần Quảng trước khi đi vỗ tay vào túi áo, nói: “May là kịp chụp lại mấy tấm ảnh này, trở về tôi sẽ nhanh chóng đưa ra bản báo cáo giám định vết thương, tuy nhiên thiếu mất bước kiểm tra vết thủng nên có thể sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả giám định.”
9.
Ngày 19 tháng 8 năm 2001. Trời quang.
Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.
Vết thương của Từ Kiếm Minh là vết thương ngoài da, tuy mất nhiều má.u, nhưng may mà anh ta trẻ khỏe nên hồi phục rất nhanh, mấy ngày là đã xuất viện. Thẩm Thư dặn dò anh ta phải hết sức cẩn thận, đề phòng hung thủ sẽ ra tay tiếp, cố gắng hạn chế ra ngoài, không được đơn phương hành động, Từ Kiếm Minh đều đồng ý.
Ngày thứ hai sau khi Từ Kiếm Minh bị thương, Trần Quảng đã đưa ra bản báo cáo giám định, đại khái như sau: Trên tay trái của Từ Kiếm Minh có một vết bắn vào và vết bắn ra rõ rệt, mặc dù chỉ dựa trên ảnh chụp, chưa được nhìn thấy vết thủng nhưng vẫn có thể xác nhận vết thương là do đạn bắn, vết đạn bắn vào có hình elip, vết xước không rõ ràng, không có hiện tượng quầng khói ăn mòn dưới da, da không bị rách. Với những đặc trưng trên, có thể nhận định hung khí là súng nòng trơn, cự ly bắn khoảng 10m.
Súng nòng trơn là những súng bên trong nòng không có những rãnh xoắn, chủ yếu là súng dân dụng, bao gồm súng săn, súng pháo sáng và những súng tự chế khác. Nói cách khác, Trần Quảng cho rằng vũ khí gây thương tích cho Từ Kiếm Minh là một khẩu súng dân dụng, điều đó khiến cho phạm vi điều tra tương đối rộng, bởi việc quản lý súng dân dụng chưa được hoàn thiện, hơn nữa súng tự chế cũng như súng cải tạo không quá khó tìm trong dân gian. Xét thấy nghi phạm được hoạch định từ trước đã từng là bộ đội, cảnh sát hoặc vệ sĩ, cho nên không loại trừ khả năng hắn có súng tự chế.
Tuy vụ án dùng súng lần này không có ai chế.t, nạn nhân Từ Kiếm Minh chỉ bị thương nhẹ, nhưng những vụ án liên quan đến súng đều rất được chú trọng, Giám đốc sở điều tra Cao Đại Hùng đã ra lệnh cho các đồn trưởng đồn cảnh sát dốc hết sức để rà soát lại súng trong khu quản hạt, bao gồm những người buôn bán, sử dụng và tàng trữ súng, những nghi phạm có khả năng chế tạo súng, tất cả đều phải được điều tra. Đồng thời huy động lực lượng nằm vùng, hễ báo cáo những trường hợp tàng trữ súng bất hợp pháp và được cảnh sát xác minh, đều sẽ được trọng thưởng.
Đương nhiên, việc điều tra theo kiểu cuốn chiếu này có hiệu quả hay không vẫn cần thêm một chút may mắn, nếu như nghi phạm chưa từng để lộ sơ hở, hoặc chưa từng lưu bạt trong “giới” thì khả năng tìm được manh mối dựa trên những tố cáo bên ngoài đã nhỏ lại càng nhỏ hơn.
Còn đối tượng tình nghi của báo chiều Sở Nguyên kể từ cuộc gọi lần trước, đến nay vẫn mai danh ẩn tích. May thay, tên sát thủ của vụ án giế.t người liên hoàn vẫn chưa ra tay thêm lần nữa.
Ngày qua ngày, thời gian cứ thế trôi đi, khi mùa mưa sắp qua thì mọi người mới thở phào nhẹ nhõm…… Tên hung thủ ngạo mạn mà hoang tưởng, nhất định sẽ không thay đổi cách thức giế.t người của mình, sau mùa mưa, nếu hắn muốn ra tay e là phải đợi đến năm sau. Tuy áp lực phá án không vì thế mà giảm nhẹ, chí ít thì thời gian cũng dư dả hơn, không giống như bây giờ, chẳng khác gì một cuộc đua sống chế.t với một tên sát nhân vô hình.
Sau một buổi chiều âm u, trưởng phòng khoa học kỹ thuật Vân Hải Đào điều tôi đi sắp xếp những hồ sơ giám định pháp y trong khoảng thời gian gần đây, đồng thời chọn ra những vụ án điển hình để ông ta dùng trong cuộc họp sắp tới ở Bắc Kinh. Những báo cáo giám định pháp y được phòng khoa học kỹ thuật Sở thành phố và các phòng ban trực thuộc báo cáo lên đều được cất ở kho tư liệu, báo cáo hàng tháng lên tới cả trăm bản, đa số là những vụ ẩu đả, va chạm, ngộ độc thực phẩm, báo cáo giám định án mạng chỉ chiếm một phần nhỏ, những vụ án điển hình thì lại càng ít.
Trong quá trình tìm kiếm, tôi đột nhiên nhớ đến vụ án giế.t người liên hoàn mà mình tham gia cùng bản báo cáo giám định pháp y về vết súng bắn của Từ Kiếm Minh. Đương nhiên vụ án chưa được phá thì không thể đem tới hội nghị để tuyên đọc, điều tra hình sự chỉ trọng kết quả chứ không trọng quá trình, mà kết quả thì chỉ có hai loại là phá hoặc chưa phá, còn việc bạn đã tốn bao nhiêu tâm huyết, trải qua bao nhiêu khó khăn, sử dụng những thủ đoạn nào, chỉ cần án chưa được phá thì sẽ chẳng ai quan tâm bạn đang nói gì. Tuy nhiên, tôi lại tỏ ra hiếu kỳ với vụ án Từ Kiếm Minh bị bắn, bởi trước đó Trần Quảng đã xử lý độc lập, không hề cho tôi xem những tấm ảnh chụp vết thương của Từ Kiếm Minh. Với tâm thế học hỏi kinh nghiệm của các bậc tiền bối, tôi đã rút báo cáo giám định của vụ án này ra khỏi đống hồ sơ.
Một xấp ảnh dày cộp, khoảng hai mươi mấy tấm, chụp vết đạn bắn vào và bắn ra cùng những vết cháy xém từ các góc độ khác nhau. Tôi lật giở một lượt các tấm ảnh, đột nhiên như bị ai đó đánh vào đầu, phải mất một lúc mới định thần lại, tại sao lại như thế? Tôi kiểm tra lại từ đầu hai mươi mấy tấm ảnh, dưới ánh đèn sợi đốt xem đi xem lại cả chục lần, sau đó mở bản báo cáo giám định của Trần Quảng ra, dò đọc từng chữ một. Sau khi xác nhận không có sai sót, tôi đơ ra hồi lâu, ngồi sụp xuống ghế, cảm giác như tòa cao ốc hùng vĩ hoa lệ đổ sụp trong lòng, chẳng còn gì ngoài một mớ hỗn độn hoang tàn. Tôi nhẩm đi nhẩm lại, tại sao lại như thế? Tại sao lại có thể như thế?
Suốt một ngày một đêm, tôi như người mất hồn, đầu óc quay cuồng đảo lộn, chỉ toàn là hai mươi mấy tấm ảnh và một dòng chữ in đậm đập vào mắt: Hung khí là súng nòng trơn. Tôi nên làm gì đây? Một kẻ mới chập chững bước chân vào nghề lại đi nghi ngờ một biểu tượng quyền uy trong ngành? Một người sếp? Tôi dám không? Bất luận đúng hay sai, tôi vẫn là kẻ thua cuộc, sẽ tự đào mồ chôn cho sự kiêu ngạo, thiếu tôn sư trọng đạo của mình. Ở trong một xã hội Trung Quốc nghiêm ngặt về thứ bậc, ai cũng hiểu điều đó có nghĩa là gì.
Nhưng mà, giả vờ như không nhìn thấy, để cho sự thật bị bóp méo, tôi làm thế có xứng với lương tâm của mình không? Mỗi ngành nghề đều có một phẩm chất đạo đức riêng, phẩm chất của nghề pháp ý đó là tìm ra chân tướng, bảo vệ chân tướng, phơi bày chân tướng. Chân tướng, có thể rửa sạch nỗi oan, là sự tồn vong của sinh mạng; Chân tướng, có thể thay đổi cả cuộc đời của một con người hoặc một nhóm người.
Đây là rắc rối đầu tiên tôi gặp phải từ khi bước chân vào ngành cảnh sát, đến giờ tôi vẫn có thể hồi tưởng lại tâm trạng rối bời và do dự lúc đó. Có hai điểm yếu lớn nhất trong tính cách của tôi, một là việc bé xé to, lúc nào cũng phóng đại mọi chuyện, làm việc gì cũng nghĩ trước nghĩ sau, luôn hướng đến sự hoàn hảo; Hai là thiếu quyết đoán, rất khó cũng rất ít khi tự mình đưa ra một quyết định quan trọng. Bây giờ, tôi phải nhanh chóng đưa ra quyết định.
Cuối cùng, tôi bước vào phòng làm việc của Thẩm Thư, lén la lén lút như làm một việc gì đó hèn hạ.
Biểu cảm của Thẩm Thư rất bình tĩnh, không hề tỏ ra ngạc nhiên hay ngoài ý muốn, quan sát tỉ mỉ những tấm ảnh và bản báo cáo giám định vết thương của Từ Kiếm Minh mà tôi đã pho-to, đồng thời nghiêm túc lắng nghe những kết luận giám định của tôi đối với vết đạn bắn của Từ Kiếm Minh: “Vết thương của Từ Kiếm Minh là một vết đạn xuyên thấu, không làm tổn thương đến xương và cơ, ở trong thịt hình thành nên một vết đạn bắn vào, vết thủng và vết đạn bắn ra. Miệng vết đạn rõ ràng to hơn đường kính nòng của súng săn, ở vết đạn bắn vào có vòng tròn màu xám do súng lục tạo thành, các mô xung quanh ở dưới da và phần đầu của vết thủng bị thâm đen, cháy xém và có những hạt li ti bám vào, đầu đạn tạo thành một vết thủng hoàn chỉnh, phần mép vết đạn bắn ra lòi ra ngoài, thành hình bông hoa, xung quanh có các mô mỡ chảy má.u. Đây đều là những đặc trưng của vết thương do súng nòng rãnh xoắn gây ra. Do đó hung khí gây thương tích cho Từ Kiếm Minh không phải là súng săn, mà là súng lục quân dụng hoặc cảnh dụng. Nói chính xác hơn, dựa vào cự li bắn của hung thủ và mức độ bị thương của nạn nhân để phán đoán, tôi nhận định hung khí là một khẩu súng Mauser đã bị loại ra khỏi biên chế.”
Tôi nói xong, Thẩm Thư ngồi im lặng khoảng nửa phút, có thể nhận thấy cậu ta đang suy tư. Cậu ta là một người thông minh, không chỉ nghe hiểu kết luận của tôi, mà còn nghe ra ẩn ý trong đó. Bản thân tôi cũng không hiểu tại sao khi gặp phải vấn đề lớn trong cuộc đời, tôi lại né tránh lãnh đạo trực tiếp mà tìm đến cậu ta để làm sáng tỏ sự thật. Dựa vào thời gian tiếp xúc cũng như sự hiểu lẫn nhau của chúng tôi thì vốn không đủ để tạo nên một sự tin tưởng cao độ đến vậy. Cuối cùng, Thẩm Thư mở miệng hỏi: “Cô nắm chắc mấy phần về kết luận của mình?” “Một trăm phần trăm.” Tôi có chút sợ sệt, nhưng vẫn rất kiên định, nói xong câu này, không đợi anh ta tỏ thái độ tôi liền quay người bước đi, trong lòng như trút được gánh nặng, tôi đã ném củ khoai nóng bỏng tay ấy cho Thẩm Thư, để anh ta tự xử lý.
Bước gần đến cửa, Thẩm Thư đột nhiên hỏi: “Tại sao cô lại nói với tôi chuyện này? Cô đang nghi ngờ sư phụ mình có đúng không?” Giọng nói cậu ta rất thấp, nhưng lại như sấm nổ bên tai, tôi đặt tay lên tay nắm cửa, đứng đơ ra nửa ngày, không biết nên tiếp lời hay mặc kệ, rồi cứ thế bỏ đi.
Sau cùng, tôi vẫn xoay người lại, đối mặt với Thẩm Thư, mặt đỏ bừng vì kích động, nước mắt lưng tròng. Tôi bước nhanh đến trước mặt cậu ta, giọng tối sầm nhưng vô cùng cấp bách, nói: “Đây là một sai lầm rõ ràng, ý tôi là, với trình độ và kinh nghiệm giám định như thầy ấy, tuyệt đối không thể phạm phải sai lầm sơ đẳng như vậy. Tôi đã xem qua bản báo cáo giám định vết súng trước đây của thầy ấy, vô cùng chuyện nghiệp, một số còn làm nên kinh điển trong lĩnh vực pháp y. Nhưng mà, bản báo cáo này giống như cố ý làm sai để che giấu điều gì đó vậy.” Tôi nói hết một hơi những vướng mắc ở trong lòng, nước mắt cũng theo thế mà tuôn.
Thẩm Thư gật đầu, đáp: “Cảm ơn cô, Thục Tâm, cảm ơn sự dũng cảm và thành thật của cô, cũng cảm ơn sự tin tưởng của cô dành cho tôi. Vì nhu cầu điều tra, cũng vì sự an toàn của cô, mọi việc sau này cứ giao cho tôi xử lý, cô không cần phải nói cho người thứ ba biết.” Tôi ra hiệu đồng ý, thực tế thì tôi cũng chỉ biết đồng ý, một tay pháp y quèn mới vào nghề, muốn đối đầu với chính lãnh đạo trực tiếp của mình, quả là điều điên rồ. Thẩm Thư chủ động nhận trách nhiệm về cậu ta, tôi mong còn chả được.
[Còn tiếp]