11.
Sáng ngày 19 tháng 6 năm 2002. Mưa nhỏ.
Bệnh viện răng hàm mặt Nhân Ái.
Đây là một bệnh viện tư nhân. Quy mô tuy không lớn, nhưng bên trong được trang hoàng rất xa hoa lộng lẫy, thiết bị y tế cũng vô cùng tiên tiến, thu phí không hề rẻ, đắt gấp đôi so với giá dịch vụ tương tự cùng ngành. Bác sĩ Hạ Hoài Du, chủ tịch của Bệnh viện Nhân Ái giới thiệu: “Mục tiêu của bệnh viện chúng tôi, là đem đến cho giới trung thượng lưu những dịch vụ tận tình nhất.” Khi ông ta nói ra câu này, ngữ khí đầy vẻ tự hào.
Hạ Hoài Du năm nay ngoài 40 tuổi, diện mạo anh tuấn, tính cách phóng khoáng, hào hoa phong nhã, nhìn là biết ông ta là một phần tử tri thức thành công trong sự nghiệp. Trước đó đội trọng án đã điều tra hơn chục bệnh viện và phòng khám nha khoa, khi tiếp xúc với Hạ Hoài Du, ông ta cho rằng răng bọc sứ và chân răng còn sót lại của nạn nhân thứ hai đều từ tay ông ta mà ra, cho nên tôi và Thẩm Thư đã cùng nhau đến phòng làm việc của ông ấy để xá.c nhận thêm về danh tính thi thể.
Tôi đưa cho Hạ Hoài Du xem tấm ảnh chụp X-quang răng của nạn nhân, Hạ Hoài Du mất hai phút để nhận dạng, nói một cách chắc nịch: “Không sai, bốn chiếc răng bọc sứ và chân răng này đều do chính tay tôi làm, nếu nhìn bệnh nhân thì có khi tôi không nhận ra, nhưng nhìn vào răng thì không thể chuội đi đâu được. Bệnh nhân này nhổ răng xong thì không thấy đến, tôi đang lấy làm lạ, không hiểu sao cô ấy lại không tới trồng răng.” Tôi tin tưởng vào năng lực chuyên môn của vị bác sĩ nha khoa trước mặt, hỏi: “Có thể cho chúng tôi xem hồ sơ của bệnh nhân này không?” Hạ Hoài Du cười đáp: “Hồ sơ của bệnh nhân đáng lý không được tiết lộ ra bên ngoài, nhưng cảnh sát đang chấp pháp, đương nhiên là được rồi.”
Hồ sơ khám chữa bệnh nha khoa của bệnh nhận khi còn sống rất ít, chỉ dày có hai trang, nội dung như sau: Miêu Diểu, nữ, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1975, đã kết hôn, trú tại gia viên Mỹ Ngữ, thôn Tiểu Hàn, thành phố Sở Nguyên.
Tôi nói: “Ế, gia viên Mỹ Ngữ, ngay sát chỗ tôi.” Thẩm Thư đáp: “Nhà cô với tiểu khu đó chỉ cách nhau một con đường, thế giới này nhỏ bẻ thật.” Tôi trợn mắt nhìn cậu ta, không tiếp lời. Thôn Tiểu Hàn cách rất xa thành phố, người trong thành phố ít qua đây, trong ấn tượng của tôi lại chưa từng kể cho Thẩm Thư biết nhà mình ở đâu, thế mà cậu ta nói đại cũng được câu như vậy, dường như chuyện to nhỏ gì trên đời cậu ta cũng nắm rõ trong lòng bàn tay. Bên cạnh có một gián điệp như vậy, khó tránh khỏi nhiều lúc bị cậu ta làm cho hết hồn.
Thẩm Thư vờ như không nhìn thấy thái độ bất mãn của tôi đối với cậu ta, nói: “Khu đó thuộc quản lý của đồn cảnh sát Quang Minh, trong số nhân khẩu mất tích mà họ báo lên không có ai tên là Miêu Diểu cả, thật là kỳ lạ.” Đấy, nghe xem, lại nữa rồi, nhân khẩu mất tích được các đồn cảnh sát trên thành phố báo lên tận mấy trăm người, sao cậu ta dám khẳng định chắc nịch đến thế, lại còn cụ thể đến từng khu quản hạt.
Bất luận là cậu ta cố tình phô trương, hay chỉ là một cuộc đối thoại đơn thuần, tôi đều cảm thấy khó chịu với cái năng lực nghiệp vụ siêu mạnh mà cậu ta thể hiện ra. Đương nhiên, thứ cảm giác khó chịu ấy sau nhiều năm chúng tôi làm việc chung đã chuyển hóa thành sự tín nhiệm và bái phục tuyệt đối, nhưng cảm giác lúc đó thì như bị hóc xương cá ở cổ vậy. Con người như Thẩm Thư, bất luận có khiêm tốn và thân thiết đến đâu cũng khó tránh khỏi việc đem đến áp lực cho đồng nghiệp, cần thời gian để thích ứng và tiếp nhận.
Hạ Hoài Du không phát hiện ra phản ứng nhỏ nhặt của tôi, nói: “Tôi có ấn tượng với cô Miêu Diểu này, xinh đẹp, cao tầm 1m7, ăn mặc thời thượng, chịu chi, có vẻ điều kiện kinh tế rất tốt.” Dừng lại một lát rồi nói: “Có người dị nghị, bảo nhìn khí chất cô ta, trông giống tiểu tam.”
Thẩm Thư hỏi: “Lúc đến khám cô ta có đi cùng ai không?”Hạ Hoài Du lắc đầu đáp: “Không, cô ta toàn đi một mình.”
Ra khỏi cổng bệnh viện, Thẩm Thư nói với tôi: “Miêu Diểu đã kết hôn rồi, vợ mất tích mà chồng lại không báo án, nhất định có vấn đề, chúng ta hãy đến gia viên Mỹ Ngữ một chuyến.”
12.
Trưa ngày 22 tháng 6 năm 2002. Trời quang mây tạnh.
Phòng 501 gia viên Mỹ Ngữ, thôn Tiểu Hàn, thành phố Sở Nguyên.
Vận may không tồi, hôm nay là thứ Tư, vừa hay chồng của Miêu Diểu ở nhà。
Đây là căn nhà trọ gồm hai phòng ngủ, một phòng khách và một phòng bếp, được sửa sang lại đẹp đẽ. Căn phòng vô cùng bừa bãi, bốc mùi khó ngửi, hộp mỳ ăn liền, mẩu thuốc lá, chai rượu không, tất thối vứt ở khắp nơi. Một người đàn ông da bọc xương, hai mắt thâm quầng ngồi ủ rũ trên ghế so-fa, đờ đẫn nhìn tôi và Thẩm Thư.
Thẩm Thư nhận ra người đàn ông ấy, gọi một tiếng: “Lý Đại Khôn, chồng của Miêu Diểu thì ra là anh.” Lý Đại Khôn là một con nghiện, từng gia nhập vào một băng cướp, bị Thẩm Thư xử lý một lần.
Lý Đại Khôn với ánh mắt mơ màng và trống rỗng cũng nhận ra Thẩm Thư, rùng mình như một phản xạ có điều kiện: “Thẩm…… đội trưởng, sao anh lại đến đây? Dạo gần đây tôi không làm gì cả. Lão…… gia có khỏe không?”
Thẩm Thư bị anh ta đùa cho không nhịn được cười: “Rồi, tôi còn nhỏ hơn anh mấy tuổi đấy mà đã bị gọi là lão gia. Không tán dóc nữa, vợ anh đâu?” Lý Đại Khôn ngơ ngác: “Vợ tôi á? Mấy ngày nay không gặp rồi, chả biết cô ta đi hú hí ở đâu.” Tôi có chút nghe không lọt tai, nói: “Vợ anh đi đâu mà anh lại không biết à?” Lý Đại Khôn bĩu môi cười gượng, đáp: “Không biết đâu mà tìm, hay là cô nói cho tôi biết cô ta đã đi đâu đi?”
Tôi nhìn vào chỗ ở của anh ta, quả thực là một trạng thái sinh tồn khác người, có thể nhận ra mối quan hệ vợ chồng đã chế.t của họ. Tôi hỏi: “Năm xưa sao mà Miêu Diểu lại có thể lấy anh được nhỉ?” Lý Đại Khôn “hừ” một tiếng rồi đáp: “Cô ta thì tốt đẹp gì, chẳng qua thấy bố tôi lắm tiền. Ai ngờ ông già chế.t sớm quá, tiền để lại còn chẳng đủ cho tôi tiêu thì cô ta còn chịu chung lưng đấu cật với tôi không? Sớm đã ra ngoài kia để quyến rũ đàn ông rồi.”
Thẩm Thư thấy anh ta ăn nói không ra gì, cất cao giọng đáp: “Được rồi, đừng thiếu suy nghĩ như vậy nữa, tôi nói cho anh biết, Miêu Diểu bị người ta giế.t hại rồi, hôm nay chúng tôi đến tìm anh là vì việc này đây.” Lý Đại Khôn bị dọa cho ngã lăn ra ghế, đôi chân mỏng như cọng rơm run lên bần bật, hai mắt trợn tròn như sắp lòi ra ngoài, run rẩy hỏi: “Bị…… bị người ta giế.t rồi? Là ai…… ai làm? Ở đâu…… giế.t ở đâu?”
Thẩm Thư nhìn chằm chằm vào mắt anh ta rồi nói: “Anh hoảng cái gì?” Lý Đại Khôn đáp: “Tôi hoảng…… hoảng cái gì? Tôi không…… không hoảng.” Thẩm Thư nói: “Anh hoảng, nhưng không hề thương xót. Dù gì cũng là vợ chồng, chả nhẽ anh không nghĩ tốt được chút nào cho cô ấy à?” Lý Đại Khôn hoàn hồn trở lại, đáp: “Cô ta thì có gì tốt, cô ta có tốt với tôi không? Cô ta coi tôi như cái cây ATM thịt người, tiền tiêu hết rồi, cô ta sẽ không trở về cái nhà này nữa. Kết hôn bao nhiêu năm, tôi chưa từng được ăn bữa cơm nào do chính tay cô ta nấu, anh nói xem cô ta có tốt với tôi không?”
Thẩm Thư hỏi: “Cô ta không về nhà, vậy ở đâu?” Lý Đại Khôn đáp: “Không nhất định, cô ta có cái ổ của riêng mình, chuyên dùng để qua đêm với giai, có lúc lại ở trong quán bar, có lúc còn về nhà bố mẹ đẻ.” Thẩm Thư hỏi: “Cô ta không đi làm sao?” Lý Đại Khôn đáp: “Sao mà không đi làm, cô ta là phóng viên của đài truyền hình Tỉnh, không cần làm đúng giờ, công việc nhàn rỗi, thời gian lại tự do, tan ca không có gì làm thì đi bán dâm.” Thẩm Thư quát: “Anh ăn nói cho tử tế, nghĩ cho kĩ rồi hãy mở miệng.” Lý Đại Khôn trợn con mắt ốc nhồi, không nói gì.
Thẩm Thư hỏi: “Bình thường cô ta hay tới đâu để quen biết đàn ông?” Lý Đại Khôn đáp: “Không biết, tôi chả buồn hỏi, con đàn bà háo sắc ấy ghê gớm lắm, đi trên đường cũng có thể mồi chèo được cánh đàn ông.” Thẩm Thư nói: “Cô ta có nhân tình nào mà quan hệ ổn định, qua lại trong thời gian dài không?” Lý Đại Khôn đáp: “Không có. Không biết, tôi cũng không rõ.” Thẩm Thư quát lớn: “Tóm lại là không có hay không biết?” Lý Đại Khôn lắp ba lắp bắp nói: “Tôi…… không rõ lắm.”
Thẩm Thư cảm thấy Lý Đại Khôn đang che dấu mà không chịu nói thật, liền hù dọa: “Lý Đại Khôn, đây không phải lần đầu hai chúng ta nói chuyện với nhau, tất cả những gì anh làm trước đây tôi đều rõ. Tốt nhất là anh nên nói thật, bất kể là phối hợp phá án cũng tốt, mà báo thù rửa hận cho Miêu Diểu cũng tốt, đừng để cuối cùng chính anh cũng không được quyền lựa chọn.”
Lý Đại Khôn từng thất bại trong tay của Thẩm Thư, nên tỏ ra vô cùng sợ hãi trước cậu cảnh sát hình sự trẻ mặt mày thanh tú lại nhìn thấu chân tơ kẽ tóc này, bị cậu ta hù dọa như vậy, cân nhắc được mất, nghĩ là vẫn nên khai báo thành thực thì hơn, bèn đáp: “Tôi nói thật, không dối một lời, con đàn bà ấy đi rao bán khắp nơi, chắc định bán sỉ mà chưa có cơ hội để chốt giá.” Tôi nghe hiểu câu nói đó, trong lòng cảm thấy ghê tởm cái tên đàn ông nghiện ngập, ăn nói tục tĩu này, chỉ muốn lên sút cho hắn mấy phát.
Thẩm Thư có vẻ cũng nghe hiểu, hỏi: “Chuyện khác của Miêu Diểu thì anh không biết, sao chuyện này lại rõ thế?” Lý Đại Khôn đảo mắt, đáp: “Tôi…… dù gì cũng là vợ tôi mà, sao có thể một chút cũng không quan tâm chứ?” Thẩm Thư liền sỉ nhục hắn ta: “Anh đừng dùng mấy lời đó để qua mắt tôi, tâm địa gian xảo của anh có thể quay đầu được ư?” Lý Đại Khôn cười trừ đáp: “Vâng, Thẩm đội trưởng, không phải tôi đang định nói đây sao? Chuyện Miêu Diểu thác loạn với đàn ông bên ngoài, tôi đã điều tra qua.” Thẩm Thư hỏi: “Anh điều tra kiểu gì?” Lý Đại Khôn tỏ ra thần bí, đáp: “Tôi đã thuê một thám tử tư.”
Theo lời kể của Lý Đại Khôn, thám tử tư mà anh ta thuê tên là Vương Chí, là trưởng văn phòng thám tử Đại Bạch, trước đây cũng từng là một cảnh sát. Vương Chí đã theo dõi Miêu Diểu suốt một tháng, chụp được một lượng lớn ảnh, đều là cảnh cô ta cùng với đủ loại đàn ông đang mua vui hưởng lạc, có ảnh thì choàng vai bá cổ, có ảnh thì khoe mông hở ngực, phơi bày những thói hư tật xấu. Nhưng những người đàn ông trong ảnh thì già trẻ gầy béo không giống nhau, cũng chứng mình rằng Miêu Diểu không có người tình ổn định lâu dài, chỉ là mối quan hệ chồng hờ vợ tạm dùng những đồng tiền trần trụi để giao dịch với nhau.
Thẩm Thư vừa lật xem những tấm hình vừa hỏi: “Thân phận những người đàn ông này anh đều tìm hiểu rõ chứ?” Lý Đại Khôn đáp: “Nhiều người như vậy, lượng công việc quá lớn, chỉ tìm hiểu được vài người, có thằng thì làm kinh doanh, cũng có cả cán bộ nhà nước.” Thẩm Thư nói: “Chuyện này tính đến thời điểm hiện tại cứ giao hết cho tôi xử lý, anh không được nhúng tay vào. Toàn bộ ảnh đều ở trong này chứ? Còn tư liệu hình ảnh nào nữa không?” Lý Đại Khôn thề một cách long trọng: “Không còn, tôi đảm bảo đã giao hết vào tay lão gia rồi.” Thái độ của anh ta đối với Thẩm Thư vô cùng kính cẩn, nhưng một chàng trai chưa đến 30 tuổi đã bị gọi là “Lão gia”, cứ khiến cho người ta cảm thấy kỳ quái thế nào.
Thẩm Thư bước ra đến cửa lại quay người lại, nói với Lý Đại Khôn: “Anh thuê người theo dõi Miêu Diểu là để tống tiền đúng không? Nếu có ai trong số những người đàn ông trong ảnh này bị đe dọa, tôi sẽ đến hỏi tội anh. Miêu Diểu đã qua đời rồi, bất luận thế nào, anh chị cũng là vợ chồng, hãy lo hậu sự cho cô ấy thật tử tế.”
13.
Chiều hoàng hôn ngày 22 tháng 6 năm 2002. Trời quang.
Văn phòng thám tử Đại Bạch thành phố Sở Nguyên.
Văn phòng thám tử này nằm trên một nhà ngang ở trong một con ngõ nhỏ, chỉ có một phòng làm việc, hai nhân viên. Căn phòng chật hẹp, tối tăm, ẩm thấp, đồ dùng trong phòng làm việc đều có tuổi đời gần 20 năm. Xem chừng việc kinh doanh có vẻ không được tốt.
Trưởng phòng Vương Chí, bộ dạng ngoài 30 tuổi, thấp béo, để râu cá trê, đã vào mùa hè mà anh ta vẫn đội mũ dạ đen, mặc bộ áo quần lụa tơ sống màu đen, chân đi đôi giày vải gấm đế mềm màu đen, ngậm một cái tẩu thuốc màu đen nhưng lại không hút, chỉ để đó làm đồ trang sức. Chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài, anh ta càng giống một thám tử có những toan tính sẵn trong lòng hơn là Thẩm Thư.
Hàn huyên mấy câu. Thì ra Vương Chí từng làm cảnh sát tàu hỏa, cũng chạy tuyến Bắc Kinh – Quảng Đông, là một đồng nghiệp có quan hệ khá tốt với Hoàng Dũng, người đã phát hiện ra bao tải xá.c đầu tiên. Vương Chí từ nhỏ đã thích đọc tiểu thuyết trinh thám, thần tượng của anh ta là Sherlock Holmes, khó khăn lắm mới gia nhập đội ngũ cảnh sát, nhưng chỉ được làm cảnh sát tàu hỏa, không thể phát huy tài năng, rất không cam lòng, xin được luân chuyển mấy lần nhưng đều không như ý nguyện liền tức mình từ chức, mở văn phòng thám tử tư. Không biết là do sự bó buộc tay chân của những chính sách có liên quan, hay do có lòng nhưng không đủ sức, kinh doanh được hơn 2 năm, những vụ anh ta nhận được toàn là đi bắt kẻ ngoại tình, khiến anh ta rất buồn bực.
Thẩm Thư vừa mới nói tình hình khái quát của vụ án phân xá.c, Vương Chí như mở cờ trong bụng, như một con đập xả nước, không thể ngăn lại được. Anh ta lấy dẫn chứng phong phú, phân tích một hơi 3 – 4 vụ án phân xá.c điển hình trong và ngoài nước, từ tâm lý của hung thủ, động cơ, công cụ, thủ đoạn, hiện trường gây án, tiêu hủy chứng cứ, đến những khó khăn, gian khổ, hy vọng, đột phá của phía cảnh sát cùng sự hình thành của chuỗi bằng chứng hoàn chỉnh, đến cả việc bắt hung thủ về chịu tội. Trí nhớ tốt và lý luận hoàn thiện của anh ta khiến người khác phải ngỡ ngàng.
Thẩm Thư nghe đầy thú vị, mãi không ngắt lời, đợi cho anh ta nói hết mới hỏi anh ta về tình trạng đời sống cá nhân của Miêu Diểu. Vương Chí vẫn đang đắm chìm trong thứ cảm xúc hưng phấn, đáp: “Miêu Diểu là người mà tôi và trợ lý Vương Bằng cùng nhau theo dõi, lúc đó tôi từng nói, một phụ nữ đã có chồng mà sống thác loạn như vậy thì kết cục thường sẽ rất thảm hại, quả nhiên, nói chơi mà trúng thật, hầy.” Vương Chí lắc cái đầu to tướng, tỏ ra tiếc thương cho Miêu Diểu, cũng là để ngất ngây cho cái sự tiên đoán như thần của mình, một lúc sau mới nói tiếp: “Miêu Diểu không có người tình qua lại lâu dài, chồng cô ta cũng đã quen với cuộc sống dâm loạn của vợ, nên không có cớ gì lại rơi vào hoàn cảnh bi đát vì phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác, khả năng giế.t người vì tình cũng rất nhỏ.” — Điểm này hoàn toàn phù hợp với những phân tích của chúng tôi, đầu óc của tay thám tử này cũng coi là tinh tường — “Miêu Diểu ra vào khu ăn chơi, bán sắc bán thân, tiếp xúc với đủ loại người, thành phần phức tạp trong xã hội. Nhưng nói thật, diện mạo của Miêu Diểu không tầm thường, còn là phóng viên đài truyền hình, những người chơi thân với cô ta đều có địa vị kinh tế và địa vị xã hội nhất định, đa số là doanh nhân và quan chức chính phủ, khả năng những người này vì ham muốn da thịt của Miêu Diểu mà chó cùng dứt giậu là không cao.”
Vương Chí tuy suy luận khá ổn, nhưng lại không có chỗ nào để tham khảo được, có nghe tiếp cũng chẳng ý nghĩa, Thẩm Thư không nhịn nổi bèn ngắt lời anh ta: “Trong quá trình các anh theo dõi Miêu Diểu, có thấy cô ta ngồi lên chiếc ta-xi có đuôi biển số là 347 nào không?” Mạch suy nghĩ của Vương Chí đột nhiên bị ngắt đoạn, đơ ra một lúc mới đáp: “Lần nào cô ta ra ngoài cũng ngồi ta-xi, tôi không để ý đến biển số xe.” Trước khi đặt câu hỏi, Thẩm Thư đã dự liệu được câu trả lời này, lại hỏi: “Những tư liệu ảnh mà anh chụp được, trừ những tấm giao nộp cho thân chủ, còn có tấm nào được lưu lại ở hồ sơ không?” Nói đoạn, cậu ta rút ra những tấm ảnh lấy được ở chỗ Lý Đại Khôn rồi đưa cho Vương Chí.
Vương Chí vừa lật xem ảnh, vừa đáp: “Không có, đây đều là những tấm ảnh có giá trị nhất rồi.” Thẩm Thư nhắc nhở anh ta, nói: “Chỉ cần là những tư liệu ảnh có liên quan đến Miêu Diểu, đều có thể làm chứng cứ gián tiếp.” Vương Chí vẫn lắc đầu: “Theo dõi Miêu Diểu là một mối làm ăn nhỏ, chủ thuê trả tiền cũng chả mấy, giao xong là thanh toán chứ giữ lại làm gì.” Câu trả lời ấy đã dập tắt hoàn toàn tia hia vọng còn sót lại trong chúng tôi.
Trợ lý Vương Bằng ngồi im nãy giờ của Vương Chí bỗng nhiên lên tiếng: “Sư phụ, trong điện thoại của em hình như còn có mấy đoạn ghi hình liên quan đến Miêu Diểu, em vẫn để đấy chưa xóa.” Vương Chí xua tay phản đối: “Không nội dung thực tế, chất lượng hình ảnh lại thấp, bỏ đi.” Thẩm Thư nói: “Dù sao cũng nói đến đây rồi, cứ để chúng tôi xem xem, cũng chẳng mất thời gian.” Vương Chí không tiếp tục ngăn cản nữa, chỉ trợn mắt nhìn Vương Bằng, như thể trách cậu ta lắm điều.
Điện thoại của Vương Bằng đã rất cũ kĩ, màn hình đầy vết xước. Cái này không trách được cậu ta, chỉ trách Vương Chí bắt ngựa chạy mà không cho ngựa ăn. Lấy ra vài đoạn ghi hình, chất lượng ảnh không quá tệ, vẫn nhận ra ngũ quan và cách ăn mặc của người bên trong. Có tổng cộng 5 đoạn ghi hình, mỗi đoạn lại xoay quanh một nữ chính trang điểm lộng lẫy, trông bộ dạng thì chính là Miêu Diểu. Có cảnh cô ta đang ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào một hộp đêm, có cảnh cô ta say khướt rồi cười điên đảo, có cảnh cô ta loạng chà loạng choạng bước lên xe ta-xi. Vương Chí nói: “Những đoạn ghi hình này đều là kịch một vai của Miêu Diểu, không có cảnh cô ta và khách làng chơi ngủ với nhau nên giá trị gần như bằng không. Tôi đã nói trước với các anh rồi mà.” Ngữ khí rõ ràng lộ ra vẻ bất mãn. Nghe chừng người này có tính kiểm soát mạnh, ai mà làm trái lời là anh ta sẽ không vui. Cá tính nông cạn này e sẽ không thể trở thành một thám tử giỏi.
Thẩm Thư thì có vẻ trì trệ không nghe ra sự bất mãn của anh ta, chỉ tay vào đoạn ghi hình cuối cùng nói: “Không hoàn toàn là kịch một vai, chỗ này chẳng phải còn có một người khác sao?” Vương Chí rướn cổ sáp lại xem, đáp: “Đó là tài xế ta-xi, quăng tám sào cũng chả tới cô ta đâu.” Đoạn ghi hình này rất ngắn, chỉ có hơn một phút, chiếc ta-xi đó đỗ dưới gốc gây đại thụ ở trước cửa hộp đêm, nửa thân xe bị cây che khuất, Miêu Diểu trông có vẻ uống rất say, bước liêu xiêu về phía chiếc xe, mở cửa xe xong là ngã vật xuống hàng ghế sau. Tài xế ta-xi đội một chiếc mũ lưỡi trai, vành mũ kéo sụp xuống, trong đoạn ghi hình chỉ nhìn thấy mũi, miệng và cằm. Sau khi Miêu Diểu lên xe, môi người đó mấp máy như đang nói điều gì với Miêu Diểu, rồi quay đầu lại, môi há ra rồi khép vào, nói rất nhiều, liên tục trong khoảng 1 phút, sau đó chiếc xe khởi động một cách không chậm mà cũng không gấp, đoạn ghi hình kết thúc.
ở giây cuối cùng của đoạn ghi hình, tôi đã nhìn thấy rõ biển số được gắn ở đuôi xe, FA06347, tuy chất lượng hình ảnh không quá rõ nét, nhưng khoảnh khắc chiếc ta-xi khởi động, những ánh đèn mập mờ ở trước hộp đêm vừa hay lại chiếu lên biển số xe, 2 chữ cái, 5 con số xuất hiện một cách đoan trang ở chính giữa khung hình. Tôi kích động đến mức tim đập thình thịch không ngừng, nhìn vào thời gian hiển thị trên màn hình, ngày 12 tháng 6 năm 2002, là ba ngày trước khi phát hiện ra nhóm mảnh thi thể thứ hai, thời gian vừa trùng khớp.
Thẩm Thư tuy không tỏ thái độ, nhưng hai mắt cũng rạng rỡ, cậu ta chỉ vào chiếc ta-xi trên đoạn ghi hình rồi hỏi Vương Bằng: “Cậu có nhìn rõ bộ dạng của tài xế ta-xi này không?” Vương Bằng lắc đầu đáp: “Người đó cứ ngồi dí trong xe không ló đầu ra ngoài, tôi lại nấp ở trong góc chếch về phía sau xe anh ta, từ đầu đến cuối không nhìn thấy mặt mũi anh ta. Công việc của tôi là quay lén Miêu Diểu và những người đàn ông có quan hệ mờ ám với cô ta, còn tay tài xế ta-xi này không có ý nghĩa đối với tôi, nên tôi hoàn toàn không để ý tới anh ta.” Vương Bằng vừa nói vừa thăm dò biểu cảm của Thẩm Thư, dường như cậu ta nhận thức được cái người tài xế chỉ lộ có nửa khuôn mặt ấy có vai trò hết sức quan trọng. Thực ra không nhìn rõ mặt của tài xế cũng không cần phải lo lắng, chỉ cần có biển số xe là có thể tra ra danh tính của hắn.
Thẩm Thư nắm chiếc điện thoại của Vương Bằng trong tay, nói: “Chiếc điện thoại này có thể là vật chứng quan trọng, tạm thời tôi sẽ bảo quản nó, chốc nữa cậu đến đội cảnh sát hình sự để nhận một chiếc điện thoại mà dùng tạm.” Vương Bằng lắp ba lắp bắp đáp lại một tiếng, trông bộ dạng có vẻ căng thẳng.
14.
Sáng ngày 23 tháng 6 năm 2002. Mưa nhỏ.
Phòng Kỹ thuật điều tra Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên.
Cứ ngỡ trận công đồn gần 20 ngày đêm, cuối cùng cũng vén được lớp màn nặng trịch, lộ ra một tia sáng ban mai. Ai ngờ sau một đêm khổ sở chờ đợi trong hy vọng, tin tức khiến người ta thất vọng lại nối đuôi nhau truyền đến.
FA06347, đây là một biển số xe giả. Theo ghi chép của Cục Đăng kiểm, biển số xe này vốn thuộc về một chiếc xe chở hàng hóa cỡ lớn, do chiếc xe đã bị bỏ, nên biển số cũng được thu hồi, vẫn chưa được cấp ra bên ngoài.
Điều này đã nâng tài xế lái chiếc xe ta-xi kia lên thành nghi phạm trọng yếu. Hắn không chỉ là người đã tiếp xúc với Miêu Diểu trước khi cô ấy bị hại, mà biển số xe lại trùng khớp với đuôi biển số mà nhân chứng ấy — tài xế râu quai nón kia đã cung cấp. Quan trọng hơn là, biển số xe là giả. Mục đích của nó là vận chuyển phi pháp? Hay để che giấu cho hành vi rắp tâm phạm tội này?
Đương nhiên, điều đó càng khiến cho quá trình điều tra phá án trở nên trắc trở. Mẫu mã, màu sắc của chiếc xe ta-xi này đều không khác gì so với hàng ngàn chiếc xe ta-xi khác trong thành phố. Cơ quan kỹ thuật điều tra đã cho tiến hành kiểm nghiệm đoạn ghi hình có liên quan đến chiếc xe ta-xi kia hết lần này đến lần khác, xá.c nhận thân xe không có dấu vết bị trầy xước, hư hại hay tu sửa, không thể dựa vào đó mà truy ra nguồn gốc của xe. Trên thực tế, chiếc xe này có đúng là xe ta-xi hay là xe khác ngụy trang mà thành, đều không có cách nào để xá.c nhận.
Đặc trưng diện mạo của tài xế ta-xi vô cùng mơ hồ. Dựa vào độ cao tư thế ngồi để phân tích, hắn cao khoảng 170cm, hơi gầy, cân nặng khoảng 60 – 70kg. Trong số ngũ quan chỉ có miệng là tương tối rõ ràng, có khoảng một phút đồng hồ khép khép mở mở. Còn về Miêu Diểu khi đó đang trong trạng thái say xỉn, trong khoảng thời gian này có lẽ cô ta đang tự lẩm bẩm một mình.
Tôi ngồi trong văn phòng trung tâm tin tức của Phòng Kỹ thuật điều tra, xem đi xem loại đoạn ghi hình này mấy chục lần, không bỏ qua một chi tiết nào trong khung hình. Một chi tiết tương đối quan trọng trong đó là, vị trí chiếc xe ta-xi này đứng đợi là dưới một gốc cây đại thụ một vòng tay ôm mới xuể, đội trọng án đã đến khảo sát thực địa, cái cây trong đoạn băng nằm đối diện với cửa hông ở đằng sau hộp đêm. Cửa chính của hộp đêm để khách đi vào, lưu lượng người đông, khách đứng bắt xe nhiều, đa số xe ta-xi sẽ đứng đậu ở đó. Cửa hông chỉ dành cho nhân viên sử dụng, do đa số nhân viên được thuê đều làm thâu đêm, thường có xe riêng, số người bắt ta-xi trong đêm rất ít. Cho nên, chiếc xe ta-xi này đợi ở đó, rất có thể là cố tình đợi Miêu Diểu, nếu suy đoán này là đúng thì có thể loại bỏ khả năng hung thủ gây án ngẫu nhiên, có thể xá.c nhận đây là một vụ mưu sát có chủ đích.
Thẩm Thư ở dí trong Phòng Kỹ thuật điều tra suốt từ 7 giờ sáng, trông ngóng như một đứa trẻ đang mong đợi món quà sinh nhật của mình, nhưng thứ đem đến lại là một kết quả khiến cậu ta thất vọng. Cũng chẳng trách, vụ án giế.t người phân xá.c liên hoàn có tính chất cực kỳ nghiêm trọng như này, tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có manh mối nào để có thể lần theo. Nếu như manh mối về chiếc ta-xi trong đoạn ghi hình bị cắt đứt thì vụ án lại rơi vào bế tắc. Mà hung thủ lại là kẻ cực kỳ căm ghét xã hội, khó có thể đảm bảo liệu hắn có đang âm thầm nhắm đến một đối tượng sát hại tiếp theo hay không.
Thể hình của Thẩm Thư vốn gầy còm, làm việc lao lực liên tục lại thiếu ngủ, khiến cậu ta tóp đi nhiều, ánh mắt nổi đầy tia má.u, râu ria mọc lên từ miệng và cằm, trông có vẻ rất mệt mỏi và tiều tụy.
Tôi thở dài trong lòng, muốn nói gì đó với cậu ấy, kìm nén hồi lâu, nghĩ ra một chuyện: “Hai nạn nhân đó, tôi nghi ngờ họ bị giế.t trước rồi bị cưỡng bức sau.” Thẩm Thư khẽ rùng mình, nếu không để ý sẽ không phát hiện ra, hỏi: “Giế.t xong hiế.p? Cô chắc chứ?” Tôi đáp: “Không chắc, tôi chưa đề cập đến trong bản báo cáo giám định, thi thể bị phân hủy quá nặng nề, không thể xá.c nhận được, chỉ có thể dựa vào những dấu vết tổn thương không rõ ràng để đưa ra phán đoán.” Thẩm Thư nắm tay lại, không nói gì. Tôi bảo: “Đây là một tên hung thủ cực kỳ biến thái từ tâm lý đến hành vi, lại vô cùng xảo quyệt, nếu không phải hắn để lộ sơ hở trên bao tải, có thể tới bây giờ đến địa điểm xảy ra án mạng cũng không thể xá.c định.”
Thẩm Thư im lặng hồi lâu, lại tua đoạn ghi hình đến phút cuối cùng, dừng lại, chỉ vào nửa khuôn mặt lộ ra của tài xế ta-xi trong khung hình mà nói: “Cô xem, sau khi Miêu Diểu lên xe, hắn đã nói với cô ta đúng một phút, hơn nữa còn không hề ngắt đoạn, lúc đó Miêu Diểu đang trong trạng thái say xỉn, không thể nói chuyện với hắn được, cho nên hắn hẳn đang tự nói một mình.”
Tôi không hiểu cậu ta định biểu đạt điều gì, không tiếp lời, dùng ánh mắt để ra hiệu cho cậu ta tiếp tục nói. Thẩm Thư như vừa hạ một quyết tâm lớn, nói: “Trong lĩnh vực kỹ thuật điều tra, tôi là kẻ ngoài ngành, những gì tôi nói đều là những lời không chuyên, tôi được biết thầy trò trường câm điếc đều biết nói ngôn ngữ cử chỉ, thông qua động tác tay để biểu đạt những ý đồ trong lòng. Liệu có khả năng này không, thông qua khẩu hình của tên tài xế ta-xi này, đoán ra được đại khái hắn đã nói những gì. Chỉ cần biết được nội dung của những lời hắn tự nói với mình là có thể tra ra được tối hôm đó họ đã đi đâu, hoặc biết được danh tính thật sự của tên tài xế ta-xi này.”
Câu hỏi này quả thực có hơi viển vông, tôi đáp: “Đọc môi? Đây là một nhánh bên của khoa học kỹ thuật điều tra, nói cách khác thì là tà thuyết. Theo như tôi biết, các trường cảnh sát trong nước đều không mở lớp này, cũng chưa nghe nói ở đâu có nhân tài về phương diện này. Nước ngoài từng có những tiền lệ phá án thông qua ngôn ngữ môi, nhưng cực kỳ hiếm như lông phượng sừng lân, không đủ để lấy ra làm mẫu. Huống gì, đọc môi cần có bối cảnh ngôn ngữ và văn hóa làm cơ sở, chuyên gia ngôn ngữ bằng môi ở nước ngoài cũng không thể đọc hiểu được phát âm tiếng Trung.” Tôi nói vậy, đồng nghĩa với việc phủ định đề xuất của Thẩm Thư. Là một bác sĩ pháp y, tôi tuy mới chân ướt chân ráo, nhưng dù sao cũng có chút lượng đọc hiểu, biết không ít những kiến thức đa dạng trong ngành. Pháp y học là một môn khoa học rất nghiêm cẩn, không phải cứ vỗ tay vào trán là nghi ra điểm khả thi.
Khuôn mặt trắng bệch của Thẩm Thư ửng đỏ, miễn cưỡng nhếch miệng cười, không hé răng.
15.
Chiều hoàng hôn ngày 7 tháng 7 năm 2002. Trời quang.
Đại đội trọng án của chi đội cảnh sát hình sự thành phố Sở Nguyên.
Ánh hoàng hôn vẫn hừng hực, chiếu vào căn phòng khiến nó như bốc hơi vì nắng nóng. Phòng làm việc của đội trọng án không được lắp điều hòa, mấy chiếc quạt lớn thổi vù vù, những tờ giấy được đè xuống mặt bàn kêu phần phật.
Có thể nói Thẩm Thư là một người ngang bướng. Ý kiến phủ định của tôi không hề đập tan suy nghĩ của cậu ấy, cậu ta vẫn cứ âm thầm tìm kiếm người có thể đọc được ngôn ngữ môi. Đương nhiên, bất luận cậu ta có âm thầm thế nào thì cũng không vòng qua được các cửa ngõ ở trong hệ thống cảnh sát, những hành động của cậu ta khó tránh khỏi việc bị đồn thổi ra ngoài. Thế là, có người cười, có người không hiểu, có người chỉ trích, cũng có người thông cảm. Cảnh sát là một hệ thống coi trọng kinh nghiệm, xem trọng thực chứng, lực lượng truyền thống lớn mạnh như bây giờ, bất kể những cách làm sửa cũ thành mới nào trước khi được chứng thực là có hiệu quả, đều sẽ bị xem nhẹ.
Giám đốc Sở Lưu Bách Phát tỏ ra không hài lòng với biểu hiện của Thẩm Thư trong vụ án lần này. Ông ta là một người chú trọng con số và hiệu quả thực tế, tất cả những kỹ thuật điều tra phức tạp, những quá trình phá án rắc rối, từng giọt mồ hôi và má.u của cảnh sát, đều được ông ta đong đếm bằng những con số. Tần suất xảy ra án mạng giảm, tần suất phá án tăng, mà biên độ phải vượt qua các thành phố khác trong tỉnh, chính là chính tích của ông ta, là thứ mà ông ta muốn được nhìn thấy nhất. Con số là thứ chắc chắn và vang dội nhất để chứng minh vấn đề. Còn về những phương diện khác, những người am hiểu đôi chút về huyền cơ chốn quan trường đều hiểu, chỉ là vấn đề góc độ, vấn đề bút mực mà thôi. Muốn nhấc một người lên cao, hoặc đạp ai đó xuống thấp, chỉ là hai mặt chính phản của một đồng xu, phải xem bạn đã tung đồng xu đó thế nào.
Lưu Bách Phát mấy lần tỏ thái độ bất mãn với Thẩm Thư ở trong cuộc họp Đảng ủy của Sở, chửi không dưới 10 lần câu “Gơ cha”. Có người đem chuyện này đến tai Thẩm Thư, nhưng cậu ấy chỉ cười. Thẩm Thư là trạm dừng chân cuối cùng của những lời đồn và tin nhảm, những người đã tiếp xúc lâu với cậu ta đều nói vậy. Đặc điểm này khiến cho người khác cảm thấy yên tâm khi ở cạnh cậu ta, đương nhiên, cũng khiến cho những kẻ vô ý làm tổn thương cậu ấy càng không kiêng nể, bởi sẽ không lo bị trả thù. Phẩm chất riêng của tính cách con người là vậy, lương thiện ứng đối nhu nhược, thật thà ứng đối hiền lành, không có phẩm chất tuyệt đối tốt hay tuyệt đối không tốt.
Thẩm Thư khăng khăng làm theo ý mình, cậu ấy tin rằng lời mà tài xế ta-xi nói với Miêu Diểu là chìa khóa mấu chốt để phá vỡ bế tắc, cậu ta động viên toàn bộ lực lượng để tìm ra người có thể đọc được ngôn ngữ môi. Nhưng nửa tháng trôi qua, cậu ta không thu hoạch được gì. Những người sớm đã có thái độ hoài nghi bắt đầu đem hành động của cậu ta ra làm chuyện cười sau mỗi bữa cơm. Tôi nghe được những lời nói xấu sau lưng đó, không khỏi khó chịu thay cho Thẩm Thư, nhưng sức lực có hạn, cuối cùng tôi cũng chẳng thể giúp gì được cho cậu ta.
Bước ngoặt xuất hiện vào lúc mà chẳng ai ngờ tới. Chiều hoàng hôn ngày hôm đó, đã qua giờ tan làm, đội trọng án chỉ còn lại Vu Ngân Bảo và mấy người đàn ông độc thân khác, Thẩm Thư thì trốn trong phòng làm việc để đọc tài liệu. Tiếng chuông điện thoại bên cạng Vu Ngân Bảo đột nhiên vang lên, nhưng không phải là điện thoại trực ban, số điện thoại hiển thị trên màn hình cũng không phải số quen, nhưng có thể nhận ra đó là số điện thoại của hệ thống cảnh sát. Mấy người quay ra nhìn nhau: “Đây là số máy làm việc nội bộ, ai lại gọi vào lúc này nhỉ? Nếu là công việc hàng ngày thì để họ ngày mai gọi lại là được.” Không ai với tay ra nhấc máy. Tiếng chuông điện thoại cứ réo liên hồi, như thể biết được có người tan làm nhưng vẫn chưa về. Vu Ngân Bảo nói: “Nhấc máy nghe xem, nếu là việc vặt thì cứ nói qua quýt cho xong.”
Nhấc máy lên, đối phương tự giới thiệu, là một cảnh sát tàu hỏa tên là Hoàng Dũng, chỉ danh muốn được nói chuyện với Thẩm Thư. Trí nhớ của Vu Ngân Bảo không tệ, hỏi: “Hoàng Dũng? Anh không phải là cái người cảnh sát trên tàu đã phát hiện ra mảnh thi thể của Hứa Minh Minh đó sao?” Đối phương đáp: “Là tôi.” Vu Ngân Bảo nhận thức được cuộc điện thoại này không đơn giản, không dám thờ ơ, lập tức nối máy sang phòng làm việc của Thẩm Thư.
Nối máy xong, câu đầu tiên Hoàng Dũng hỏi: “Thẩm đội trưởng, có phải anh đang tìm một người biết đọc ngôn ngữ môi đúng không?” Thẩm Thư tuy chưa từng gặp Hoàng Dũng, nhưng ông ta là vị cảnh sát trên tàu phát hiện ra mảnh thi thể đầu tiên, lại cung cấp manh mối về bao tải, xá.c định địa điểm xảy ra án mạng, biểu hiện ra rất nhiều tố chất điều tra hình sự mà nhiều cảnh sát hình sự không có, nên Thẩm Thư có ấn tượng rất sâu sắc. Hoàng Dũng hỏi câu ấy, Thẩm Thư lập tức trả lời: “Đúng, anh có manh mối gì à?”
Hai người nói chuyện không hề quanh co, vào thẳng chủ đề, Hoàng Dũng đáp: “Cảnh sát khu vực Thổ Lĩnh của Sở An ninh đường sắt, chính là cảnh sát khu đã chuyển vụ án phân xá.c Hứa Minh Minh sang đội trọng án các anh, từng có một chuyên gia giám định dấu vết, tên là Phí Nghị Lâm.” Thẩm Thư nói: “Cái tên này tôi biết, tấm gương anh hùng cấp 1 của Bộ Công an, khi còn là sinh viên của trường Đại học Cảnh sát tôi đã được học về những vụ án của ông ấy.” Hoàng Dũng đáp: “10 năm trước, phòng làm việc của lão Phí phát nổ khiến tai ông ấy bị điếc, não bộ cũng bị chấn động, trí tuệ ngang với một học sinh lớp 1.” Chuyện này Thẩm Thư cũng biết, cũng không tiếp lời, suy nghĩ xem tại sao Hoàng Dũng lại nhắc lại chuyện cũ cách đây 10 năm.
Hoàng Dũng nói: “Lão Phí là một thiên tài, tuy não bị chấn động, nhưng không vì thế mà ngăn cản ông ấy phát triển năng lực. Sau khi tai bị điếc, ông ta không nghe được người khác nói chuyện, bèn dựa vào miệng của người nhà để đoán, thời gian lâu dần, ông ấy đã luyện được khả năng đọc ngôn ngữ môi. Nghe nói ông ta xem truyền hình, chỉ nhìn vào cử động môi của diễn viên là có thể hiểu được cốt truyện, xem một cách hứng thú.”
Tôi không thể miêu tả được tâm trạng của Thẩm Thư lúc đó, bởi khi cậu ta truyền đạt lại cho chúng tôi những lời này, đã lược bỏ đi phản ứng của bản thân, tôi chỉ có thể tưởng tượng ra niềm vui sướng của cậu ấy. Phí Nghị Lâm từng là chuyên gia dấu vết nổi tiếng gần xa, trong lĩnh vực dấu chân, dấu vân tay, dấu vết vi lượng đều có thành tích, cũng là người đi đầu trong lĩnh vực biểu cảm, biểu hiện siêu nhỏ (Microexpression). Quan trọng hơn là, ông ta chưa từng được huấn luyện chuyên nghiệp về phương diện truy bắt hình sự, tất cả những thành tựu đều do ông tự mày mò dựa trên cơ sở hứng thú và thiên tài mà ra. Nếu nói trong hệ thống cảnh sát có người đọc hiểu ngôn ngữ môi, thì đó chính là Phí Nghị Lâm.
Trong cái hoàng hôn nhuộm màu má.u đỏ của ánh chiều tà, vì một cuộc điện thoại mà được đong đầy hy vọng.
[Còn tiếp]