Tôi là người sống sót sau một tai nạn máy bay 10 năm trước. Những điều đã thấy sẽ mãi ám ảnh tôi suốt phần đời còn lại – P3

Ngày 3

Sáng sớm ngày thứ 3, tiếng chim hót líu lo trở lại, báo hiệu cho chúng tôi biết ngoài kia đã an toàn. Mặc dù vậy, tinh thần của mọi người vẫn cực kỳ hoang mang khiến tất cả đều bước đi thật cẩn trọng rón rén.

‘Được rồi, tôi nghĩ nó đã biến mất!’ – Mitch hét lên với những người còn lại.

Chúng tôi theo cậu ấy ra ngoài, Mitch quay sang tôi, người đang mang theo chiếc balo nặng trĩu đồ đạc.

‘Sam, cái quái gì thế này?’

‘Tôi đã thấy nó vài lần rồi, nhưng tôi chưa từng nhìn cho rõ.’ – Tôi lắc đầu.

‘Will, anh có thấy nó không?’ – Mitch quay sang Will.

‘Tôi thậm chí còn chẳng biết điều gì đã xảy ra với Norton cho tới khi nghe tiếng thét.’ – Will nhỏ nhẹ.

Chúng tôi đứng im lặng một lúc.

‘Chúng ta không thể ở lại đây thêm nữa.’ – Linda nhắc nhở.

‘Ồ và càng không thể lang thang ngoài đó với cái thứ quỷ kia rình rập. Miếng mồi ngon đấy.’ – Mitch quay ngoắt sang, ánh mắt khó tin như thể mọi người đều phát điên rồi.

‘Sau đó thì sao?’ – Amber xen vào.

Tôi nhìn quanh và suy nghĩ một lát. Dù biết điều mình cần làm là đúng đắn, nhưng tôi vẫn ghét cái ý tưởng đó.

‘Chúng ta phải giải cứu Norton.’ – Tôi đưa ra quyết định – ‘Không thể bỏ anh ấy ở lại phía sau được.’

‘Quào’ – Mitch đảo mắt, giơ cả hai tay lên – ‘Tôi chưa nhìn rõ con này, nhưng chắc chắn là nó rất nguy hiểm. Chúng ta không thể mạo hiểm được.’

‘Chưa kể đến nó nhanh thế nào, thì ta chỉ nghe thấy Norton hét và rồi…’ – Will ngập ngừng.

‘Tôi nghĩ chúng ta sẽ an toàn nếu mang theo đuốc.’ – Tôi nói – ‘Sinh vật, dù nó là gì, đã rình rập tôi từ sáng hôm qua và ở chỗ mình đêm hôm trước, nhưng nó không bao giờ đến gần khi có lửa. Lúc tôi chĩa đèn pin vào nó, nó chạy đi cùng với cái xác. Khó đấy, nhưng cũng đáng để thử.’

‘ Thôi được, nhưng làm thế quái nào chúng ta tìm thấy Norton? Anh ấy có thể ở bất cứ đâu. Rất có thể anh ấy đã chết ngoẻo từ đời tám hoánh nào rồi.’

Tôi chỉ tay vào đống xác chết:

‘Đêm qua, nó kéo một thi thể khác đi, luôn theo cùng một hướng. Tôi nghĩ nó có thể có một hang ổ. Nếu đi theo các dấu vết, chúng ta có thể tìm thấy nó.’

‘Hỏi lần cuối, anh có thấy nó nhanh thế nào không?’ – Will hỏi – ‘Chúng ta sẽ mất tới vài ngày để bắt được nó, ấy là trong trường hợp tìm thấy.’

‘Chà, chừng nào nó còn sống, chẳng ai ở đây được an toàn cả.’ – Tôi kiên nhẫn đáp lại – ‘Chúng ta có đủ nước, nhưng thức ăn sẽ sớm cạn kiệt. Đến lúc tìm giải pháp khác rồi.’

‘Sinh vật cần nước, phải không?’ – Amber trầm ngâm – ‘Có thể có một tiếng kêu gần đó và nếu theo sau, nó sẽ đưa chúng ta ra khỏi rừng.’

Chúng tôi đã dành thời gian nghiêm túc xem xét và đi đến kết luận rằng tất cả sẽ dự trữ đồ ăn, cầm đuốc rồi đi theo các dấu vết. Đóng gói mọi thứ hữu ích xong, chúng tôi bắt đầu làm đuốc bằng cách cắt một vài nhánh cây và bọc chúng trong vải. Không còn dầu hay nhiên liệu đủ để duy trì ngọn lửa lâu hơn, nên ngọn đuốc chỉ cần cháy đủ lâu để giúp mọi người tránh xa con thú nếu bắt gặp nó thôi.

Ý nghĩ chọc giận con vật khiến trong tôi tràn ngập nỗi sợ khôn tả, nhưng vẫn phần nào thỏa mãn máu phiêu lưu. Bằng cách này hay cách khác, tất cả sẽ sớm kết thúc. Chúng tôi đã kiểm tra nơi Norton bị bắt cóc và nhanh chóng thấy rõ rằng nơi anh ấy bị kéo lê trên mặt đất đều có một lối mòn sạch lá hoặc đâu đó những phiến lá bị đè dẹp lép.

‘Nếu chờ đợi quá lâu để lá rụng nhiều hơn, ta sẽ mất dấu nó. Cần đi ngay bây giờ.’ – Will đứng trong tư thế sẵn sàng, tay vẫn đang lật qua lật lại một chiếc lá.

Số còn lại đều đồng ý và để Will dẫn đầu, vì anh ấy dường như có con mắt tinh tường nhất để phát hiện các dấu hiệu phòng khi lạc đường. Chỉ cách đó vài trăm thước, chúng tôi thấy hai vết kéo hợp nhất thành một và nó khiến chúng tôi mất khá nhiều thời gian để nhận ra rằng một vệt là từ Norton và vệt còn lại từ thi thể mà sinh vật đã kéo đêm qua.

Vì lẽ đó, đường mòn trở nên rõ ràng hơn nhiều. Nó cũng củng cố cho giả thuyết của Amber, rằng sinh vật này có một hang ổ. Chúng tôi đi bộ thêm khoảng ba mươi phút trước khi thấy một mảnh vải màu xanh trên khúc gỗ gần đó.

Will nhanh chóng cúi xuống kiểm tra.

‘Là Norton’ – Anh ấy thở dài – ‘Norton mặc quần xanh. Điều này không hay ho cho lắm.’

‘Tại sao không?’ – Linda hoài nghi.

‘Tôi nghĩ rằng có máu dính trên đó’ – Will nhíu mày thật chặt.

Linda hớp hơi thở hổn hển còn Mitch rít lên qua kẽ răng.

‘Đừng lo, có vẻ anh ấy không bị thương quá nặng đâu. Nhưng tốt nhất là ta phải nhanh lên.’ – Will trấn an.

Chúng tôi đi một giờ nữa trước khi bắt gặp một mảnh kim loại đặc biệt lớn. Có nhiều mảnh nhỏ hơn nằm rải rác xung quanh.

‘Nhìn kìa!’ – Mitch chỉ vào một khoảng trống nhỏ và sau đó những người còn lại cũng thấy rõ.

Trơ trọi giữa khoảng trống là buồng lái vỡ nát, chúc hẳn mũi xuống nền đất bẩn thỉu.

‘Ở đó có thể có vài thứ hữu ích.’ – Tôi nhận định.

Mọi người tiến tới và ngay lập tức nhìn thấy xác của một trong những phi công. Anh ta ngồi trên ghế trước kính chắn gió bị nứt, đầu gục xuống. Bụng anh ta dính đầy máu, nhưng chúng tôi không chắc chắn liệu vụ tai nạn hay do thứ gì khác đã giết chết anh ta.

Mitch phát hiện một bộ dụng cụ sơ cứu mở tung và mặc dù một số thứ đã được dùng hết, chúng tôi cũng giữ nó phòng hờ. Tôi liếc xuống sàn và thấy một thiết bị nhỏ trông giống như máy nghe nhạc nằm bên cạnh một khẩu súng. Khi chuẩn bị quỳ xuống với lấy nó, bàn tay lạnh cóng bỗng nắm lấy tôi.

Tôi ngước lên người phi công, người trước đây đã nhắm mắt và giờ nhìn chằm chằm vào mình.

‘Anh phải chạy!’ – Cậu trai trẻ nói bằng giọng run run – ‘Hãy ra khỏi đây trước khi nó quay lại!’

Tôi lùi lại trong nỗi kinh hoàng, kéo luôn cậu phi công ra khỏi ghế. Anh ta ngã quỵ xuống và ngừng di chuyển hoàn toàn.

‘Lạy Chúa tôi…’ – Linda lấy tay bịt chặt miệng.

Mitch tiếp cận người phi công và kiểm tra mạch đập của anh ta.

‘Cậu ấy…chết rồi…’ – Mitch thẫn thờ bối rối.

Tôi nhặt khẩu súng và thiết bị trên mặt đất lên. Khẩu súng có một viên đạn trong đó, vì vậy tôi bỏ nó vào túi và nhấn nút phát trên bộ đàm. Một giọng nói cất lên:

‘Đây là cơ trưởng Miles. Máy bay của chúng tôi bị rơi cách đây chưa đầy một giờ. Các đồng nghiệp và tôi vẫn sống một cách kỳ diệu, nhưng chúng tôi không biết hành khách đang ở đâu, vì máy bay vỡ thành nhiều mảnh. Chúng tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Chúng tôi đã liên lạc với kiểm soát, nhưng không có phản hồi. Tất cả sẽ ở lại đây chờ đội giải cứu. Không còn nhiều thức ăn và nước nữa, nên mọi người sẽ phải tự kiếm ăn bằng quả dại thôi.’

Có một khoảng dừng trước khi giọng nói bắt đầu trở lại:

‘Đây là cơ trưởng Miles. Mười giờ đã trôi qua kể từ vụ tai nạn. Chúng tôi đã thấy ai đó di chuyển từ xa vài phút trước, nhưng bất kể là ai, họ cũng đã bỏ chạy. Nếu may mắn, đó có thể là một người dân địa phương và chúng tôi không cách xa nền văn minh lắm.

Một khoảng dừng khác. Và sau đó:

‘Đây là cơ trưởng Miles. Đã gần một ngày sau vụ tai nạn. Mọi người liên tục cứ thấy ai đó ở đằng xa, trốn sau những tán cây. Bất cứ khi nào chúng tôi hét lên và yêu cầu giúp đỡ, họ lại bỏ chạy. Đồng nghiệp của tôi nói rằng đó là một con gấu, vì anh ta đã tới nhìn kỹ hơn. Trong trường hợp này, chúng tôi sẽ giữ súng bên người và tiếp tục đốt lửa trại để ngăn chặn bất kỳ kẻ săn mồi nào.’

Tạm dừng một lát rồi vị cơ trưởng thở hổn hển trong hoảng loạn:

‘Chết tiệt. Đây là đội trưởng Miles. Quỷ thần ơi, đó không phải gấu. Tôi cố nhìn nó cho rõ, nhưng khi nghe thấy đồng nghiệp la hét, tôi quay trở ra và anh ta đã bị kéo đi. Tôi gắng theo dấu họ, nhưng nó quá nhanh và trời tối, tôi phải trú trong buồng lái. Chỉ tới sáng thôi, rồi tôi sẽ đi khỏi đây.’

Một lần tạm dừng, lần này lâu hơn. Tôi tưởng bản ghi âm đã kết thúc, nhưng rồi Miles tiếp tục:

‘Đây là đội trưởng Miles. Tuy đã ráng tránh xa nguy hiểm, nhưng thứ này cứ đùa giỡn với tôi. Bất cứ khi nào tôi chạy, nó cũng ở đó, chỉ nhìn trộm đằng sau những cái cây, giả vờ trốn. Nhưng tôi nghĩ nó muốn mình được nhìn thấy. Sinh vật này biết mình đang làm gì, bởi vì tôi cứ quay lại buồng lái còn nó thì biến mất.Tôi sẽ phải ở đây tự vệ nếu nó tấn công.’

Bộ đàm tiếp tục phát:

Nó tóm được tôi rồi. Nó tóm được tôi rồi. Nhưng tôi đã xoay sở để làm nó bị thương trước khi bị kết liễu. Hai quả pháo sáng, quả đầu đã lấy mất vài ngón tay, còn quả thứ hai chỉ làm nó dạt đi. Sinh vật này sợ ánh sáng và lửa, thực sự thông minh. Nó trinh sát vào ban ngày và tấn công vào ban đêm.’

Có tiếng gầm gừ từ máy ghi âm. Linda nhìn qua vai, như thể sinh vật đó đang ở ngay sau lưng mình. Người phi công tiếp tục:

‘Ngay bây giờ, gần lắm rồi, nó theo dõi tôi. Tôi thấy nó đứng ngoài phạm vi ngọn lửa. Nó sẽ không đến gần lửa, nhưng tôi gần hết gỗ rồi. Hy vọng đám cháy có thể cầm cực tới sáng, nếu không, tôi chỉ còn duy nhất một quả pháo sáng. Tôi chẳng đủ sức giết sinh vật này, nhưng thề với trời là tôi sẽ sống mái ra trò. Nếu bất cứ ai tìm thấy đoạn ghi âm này, đừng chờ giải cứu. Giết! Đừng tốn sức thử chạy trốn, không ăn thua đâu. Nó biết khu rừng này tường tận hơn bất cứ sinh vật sống nào. Còn tôi cũng sẽ không sống sót được sau các chấn thương. Phi trưởng Miles, out.’

Bản ghi âm dừng lại. Chúng tôi lắng nghe trong im lặng và kinh hoàng.

‘Chúa lòng lành.’ – Mặt Mitch hằn sâu nỗi sợ hãi.

‘Vậy là’ – Tôi thở dài – ‘Ta phải giết nó.’

‘Anh có nghe người này nói không đấy?’ – Mitch vung tay – ‘Nó đã ăn một quả pháo sáng mà vẫn còn sống.’

‘Đúng đấy, nhưng chẳng phải nó sẽ không để ai rời đi mà còn sống à? Chỉ có hai lựa chọn thôi: kẻ thù, hoặc phe ta.’

‘Đấu thế quái nào với một cái rìu của nợ trong tay.’

‘Đợi đã’ – Will ngắt lời Mitch – ‘Amber đâu rồi?’

Chúng tôi nhìn xung quanh và ném cho Linda một cái nhìn trách móc.

‘Chỉ một lúc trước chị ấy còn ở đây mà.’ – Linda kêu lên.

‘Amber! Amber, cô đâu rồi?’ – Will gọi lớn.

Và rồi chúng tôi nhìn thấy máu. Vệt máu đỏ tươi chạy dọc theo khoảng trống và tiến vào lùm cây.

‘Trời ơi, ta phải đi tìm chị ấy!’ – Linda thảng thốt.

Mitch, người chỉ điểm, giờ bắt đầu lần theo dấu vết, gọi tên Amber trên đường đi. Rõ ràng cô ấy mất rất nhiều máu và may ra chỉ bị thương nặng. Lượng máu mỏng đi khá sớm, nhưng vì nó hợp nhất với các dấu vết trước đó, nên không khó để tìm đúng hướng.

‘Làm thế quái nào cô lại để điều này xảy ra vậy, Linda?!’ – Mitch hét lên trong thất vọng.

‘Sao anh lại đổ lỗi cho tôi?’ – Linda chất vấn.

‘Cô đứng gần Amber nhất’ – Mitch phản bác.

‘Mitch, bình tĩnh lại! Đó không phải lỗi của cô ấy.’ – Tôi nhắc nhở.

Chúng tôi tiếp tục sải bước trong im lặng.

‘Mọi người, đợi đã!’ – Will hét lên từ phía sau, hầu như không thể theo kịp Mitch, người đang chạy thoăn thoắt.

‘Đi thôi, ta phải nhanh lên’ – Mitch gọi với lại trước khi đứng sững, khiến tôi va vào cậu ấy.

‘Cái quái gì thế, Mitch?!’ – Tôi bực tức.

Và rồi tôi nhận ra lý do anh chàng dừng lại. Trước mặt chúng tôi là một vách đá mở ra một lối đi hẹp tới chỗ có lẽ là hang động. Lối đi bị che khuất bởi các nhánh cây, vậy nên nó dễ dàng bị bỏ qua, thậm chí khi đi ngay cạnh nó. Các tia máu dẫn vào bên trong và biến mất trong bóng tối của hang động.

‘Đây chắc chắn là cái tổ’ – Mitch vừa lẩm bẩm vừa quay sang những người khác – ‘Mọi người sẵn sàng chưa?’

Không ai trả lời. Mitch rút cây bật lửa ra thắp đuốc của mình lên và sau đó là của chúng tôi rồi đi vào không chút do dự. Tôi nhớ mình đã ngưỡng mộ anh chàng và ngọn lửa trên tay thế nào, tự hỏi liệu phút bất ngờ này là can đảm hay ngu ngốc.

Những người còn lại bám theo sau. Thứ tôi tưởng sẽ bước vào là một cái hang nhỏ, hóa ra lại dày đặc đường hầm với đường hầm ken lẫn nhau. Các lối đi chỉ đủ rộng để một người đi qua, vì vậy chúng tôi đã lách vào lần lượt, Mitch đầu tiên, Will, tôi và Linda ở cuối cùng.

‘Ôi Chúa ơi!’ – Mitch dừng lại lần nữa và nhìn đăm đăm vào một vị trí đặc biệt trên mặt đất.

‘Cái gì thế?’ – Tôi thắc mắc.

Anh chàng chỉ đơn giản tiếp tục bước đi và nói:

‘Đến đây, di chuyển tiếp thôi!’

Khi đi ngang qua thứ đã làm Mitch chú ý, ngọn đuốc chiếu sáng đủ để tôi nhận ra rằng mình đang nhìn vào bàn tay người.

Một tiếng thét làm đông cả máu, đầy nữ tính đột nhiên vọng ra từ hang động, nơi nào đó ở phía xa.

‘Amber!’ – Mitch gầm lên và bắt đầu chạy.

Tôi cũng chạy với Will theo sát phía sau, nắm chặt ngọn đuốc bằng một tay và tay kia cầm súng. Tiếng hét thảm thiết như thể ai đó đang bị lột da sống, nhưng không thể biết được chúng đến từ hướng nào.

Mitch và Will rẽ ngoặt ở góc khiến ngọn lửa của họ biến mất khỏi tầm mắt, tôi vội vã đuổi theo họ, la hét bảo hai người chậm lại. Mặt đất không bằng phẳng và trơn trượt, tôi hầu như không thể nhìn thấy gì trước mặt. Một tiếng hét khác vang lên. Tôi quay lại và nhận ra rằng Linda đã biến mất.

‘Linda? Cô còn đó không?’ – Tôi hỏi, nhưng không có câu trả lời nào cả.

Có tiếng gầm gừ nhỏ phát ra từ bóng tối trước mặt tôi, vang vọng trên những bức tường xung quanh. Tôi bắt đầu chạy về hướng Mitch và Will, hoàn toàn quên mất khẩu súng vì quá hoảng loạn. Tôi không thể nhìn thấy ngọn lửa đuốc của những người bạn đồng hành đâu nữa và mỗi bước đi, tôi càng hoảng loạn hơn.

Với tiếng thét vô nhân tình theo sát phía sau, tôi vội vã quẹo trái, chạy nước rút không ngừng nghỉ. Tôi cứ mất thăng bằng vì mặt đất gập ghềnh, nhưng vẫn phải chạy mà túm lấy cọng rơm sống sót, không quan tâm bến bờ mình sẽ dạt vào. Tôi chỉ muốn tránh càng xa sinh vật đó càng tốt, cho tới khi mặt đất dưới chân mình biến mất và tôi vấp ngã về phía trước, rơi xuống một khoảng không nào đó. Đầu tôi bị va đập mạnh.

Mọi thứ trở nên tối đen trong phút chốc.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *