Ngày 1
Bạn không thể tìm bất cứ thông tin gì về thứ này trên Internet đâu. Vụ việc được tuyên bố khép lại ngay sau khi xảy ra tai nạn, khẳng định rằng không còn ai sóng sót. Tôi chưa nói cho ai về điều này, ngay cả với người vợ quá cố. Có lẽ toàn bộ sự việc đã làm tôi đau đớn đến mức chỉ muốn ép nó lùi về sau tâm trí tôi và không bao giờ nghĩ đến nữa. Nhưng nó luôn ở đó, gặm nhấm tôi tới hao mòn, nhắc nhở tôi từng giây phút. Vì vậy, giờ tôi kể cho các bạn nghe mọi chuyện.
Lúc đó đang là đầu mùa thu, tôi vừa đặt chân lên chiếc máy bay sẽ đưa mình về nhà sau chuyến công tác dài hai tuần. Máy bay hoạt động tốt, và vì tôi rất thích đi máy bay phản lực, nên đã quyết định nghỉ ngơi một chút. Tôi không biết thời gian trôi qua bao lâu, nhưng sự hỗn loạn mạnh mẽ đã đánh thức tôi dậy. Tôi mở mắt ra, thấy hành lý rơi xuống và xung quanh là các hành khách đang la hét kinh hoàng.
‘Chuyện gì đang xảy ra vậy?’ – Tôi lập tức trở nên cảnh giác, hỏi người phụ nữ khiếp đảm bên cạnh.
Cô ta hoàn toàn phớt lờ tôi, nắm chặt lấy tay vịn ghế ngồi của mình. Mặt nạ oxy rơi từ trên cao xuống, tôi đeo nó vào ngay, thắt dây an toàn với đôi bàn tay run rẩy. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy những ngọn cây cao vô tận ngày càng tới gần.
Vậy đấy, tất cả kết thúc thật rồi.
Đó là những suy nghĩ cuối cùng của tôi trước cú va chạm và mọi thứ trở nên tối đen.
Tôi thức dậy trên sàn máy bay. Hành lý, thức ăn đổ lung tung và các vật dụng khác đều ở gần đó. Tôi nhìn lên cabin phi công và thấy cây cối rậm rạp um tùm. Chiếc máy bay rõ ràng đã vỡ thành nhiều mảnh, nhưng thân máy bay dường như vẫn còn nguyên vẹn, bất chấp sự lộn xộn xung quanh tôi.
Ý nghĩ đầu tiên ập đến tôi: Mình vẫn sống sót!
Tôi nhìn xuống thân thể nhức nhối của mình, cố đánh giá các chấn thương. Tôi bị bầm tím khá nhiều, vai bị một vết cắt nhỏ, nhưng không có gì nghiêm trọng. Rồi tôi nghe thấy giọng nói của những hành khách khác xung quanh mình. Ở bên trái, một phụ nữ khóc nức nở và người phụ nữ khác đang an ủi cô ta. Phía trước mặt, tôi nghe thấy tiếng rên rỉ, trong khi bên phải là một người đàn ông cũng bị bầm tím như tôi, nhưng đều ổn.
Tôi ngồi dậy, nhận ra rằng chỉ một số ít trong các hành khách còn sống. Vài người đang đi kiểm tra những xác chết để tìm dấu hiệu nhịp tim hay hơi thở dù mỏng manh nhất.
‘Giờ chúng ta cần giúp đỡ những người bị thương!’ – một trong số họ lên tiếng.
Tôi quyết định giúp một tay, kiểm tra mạch đập của những người chưa bị thương quá nặng để xem họ còn sống hay không.
‘Linda, cô ấy đi rồi. Tôi xin lỗi.’ – người phụ nữ an ủi thiếu nữ trẻ đang thổn thức cạnh đống bầy nhầy có vẻ từng là em gái cô ấy.
Vài phút sau, chúng tôi nhận ra một hành khách còn sống ngồi trên ghế, nhưng chỉ thoi thóp. Anh ta bị một ống kim loại đâm xuyên ruột và đôi chân đã bị nghiền nát tới không thể nhận ra. Người đàn ông này cầu xin chúng tôi giết anh ta và sau một chút do dự, Mitch, một trong những người sống sót, lấy một chiếc rìu rồi giương lên cao. Đám đông còn lại đều quay đi. Chúng tôi khó có thể chịu đựng được việc nghe âm thanh của cái rìu bổ vào hộp sọ người đàn ông, chứ đừng nói đến việc xem nó.
‘Phải làm gì bây giờ?’ – Linda hỏi.
‘Các quy tắc cơ bản nói rằng ta nên ở yên và đội giải cứu sẽ tìm thấy chúng ta dễ dàng hơn.’ – Tôi trả lời.
‘Anh ấy đúng.’ – một người khác nói – ‘Chúng ta cần lập tín hiệu SOS và cố liên lạc với ai đó. Amber, cô có tìm được gì không?’
Anh ta hỏi người phụ nữ vừa dỗ dành Linda. Cô ta đang cầm điện thoại trên tay, vung vẩy khắp nơi với hy vọng bắt được sóng.
‘Chẳng có gì hết.’ – cô ta lắc đầu đầy thất vọng – ‘một cột cũng không.’
‘Vậy thì chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài ngồi đợi thôi.’ – ai đó nói.
‘Ta phải sắp xếp nơi trú ẩn. Đêm nay sẽ rất lạnh đấy.’ – tôi nhắc nhở.
‘Này, chúng ta không ở đây lâu đâu nhỉ?’ – Mitch hỏi với vẻ hoang mang.
‘Tối nay. Và có thể thêm nhiều tối nữa’ – tôi trả lời – ‘Chúng ta phải phân chia lượng thức ăn và đảm bảo được giữ ấm.’
‘Thế còn những người đã chết? Chúng ta phải chôn cất cho họ. – Linda lí nhí qua màn nước mắt.
‘Bọn chị sẽ làm vậy, bé cưng à’ – Amber bảo – ‘Tuy nhiên ngay bây giờ chúng ta phải suy nghĩ về sự sống còn của chính mình.’
Chúng tôi đi ra ngoài thân máy bay để xem mình đang ở đâu, nhưng mặc dù có một khoảng trống nhỏ, thì xung quanh vẫn chỉ toàn cây cao sừng sững, che khuất tầm nhìn của chúng tôi. Một vài cành gãy nằm rải rác, do máy bay đã va vào chúng khi rơi. Vì chẳng có trảng đất nào đủ cao gần đó, nên chúng tôi không thể biết mình cách nền văn minh bao xa.
Chúng tôi xếp các xác chết ở phía trước thân máy bay, và quyết định không tốn sức mạnh để đào, vì ai mà biết chúng tôi sẽ lưu lại đây bao lâu, vậy nên chúng tôi chỉ che tất cả bằng vải và quần áo.
Tổng cộng, chỉ có sáu người còn sống. Linda, Amber, Mitch, Will, Norton và tôi. Vào khoảng chập tối, trời bắt đầu trở lạnh, chúng tôi phải sử dụng hành lý để chèn mọi lỗ hổng trong thân máy bay hết mức có thể.
Mitch đã dùng đá tạo thành một dấu hiệu ‘SOS, trong bải đất nhỏ sau máy bay, với hy vọng sẽ thu hút sự chú ý của đội cứu hộ. Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi vẫn không thể ngăn cái lạnh tràn vào, nên phải lập cập mặc thêm đồ và nằm lên những chiếc giường tạm làm từ quần áo và chăn của các hành khách khác.
Chúng tôi đã ăn một bữa ăn ít ỏi gồm một thanh kẹo cho mỗi người và quyết định đi ngủ. Hầu hết các thành viên trong nhóm ngủ thiếp đi nhanh chóng, ngoại trừ Linda khóc cho đến lúc thiếp đi. Tôi là người cuối cùng rơi vào giấc ngủ.
Tôi không biết khi mình tỉnh dậy khi nghe thấy tiếng cành cây gãy bên ngoài là lúc nào . Ý nghĩ có lẽ ai đó đã tìm thấy chúng tôi khiến tôi bật dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ. Ghé mắt qua khoang hành lý, thật quá khó để nhìn rõ ràng mọi thứ ngoài kia. Tôi chưa đi cắm trại bao giờ, nên quả thật bóng đêm dày đặc đã làm tôi sợ hãi một phen.
Âm thanh có thể là từ một con vật, tôi chuẩn bị quay lại giường thì nghe thấy tiếng lách cách gần đó. Tôi lấy một cái đèn pin và di chuyển vài món hành lý đi, đủ để tự mở cửa. Tôi đi ra ngoài và quét ánh sáng ra xung quanh.
“Xin chào?” – Tôi gọi, nửa hy vọng nửa không rằng có người nghe thấy mình.
Chẳng có ai ở đó cả. Tôi đi vòng quanh máy bay, mỗi cành cây tôi giẫm phải đều vang vọng khắp khu rừng. Lúc này tôi mới nhận ra khung cảnh yên tĩnh nhường nào. Khi tôi còn thức, rừng tràn ngập âm thanh quen thuộc từ các cư dân. Còn giờ thì đến một tiếng động nhỏ cũng chẳng có – không chim, côn trùng hay bất cứ điều gì cả.
Tôi nhớ mình đã nghe qua ở đâu rằng khi khu rừng chợt im bặt, nghĩa là có một kẻ săn mồi đang lảng vảng xung quanh. Nhịp tim bắt đầu tăng dần, tôi cẩn thận quét đèn pin vào các khoảng tối lần nữa và tiến về phía thân máy bay. Khi chuẩn bị leo lên, xuyên qua rào chắn bằng hành lý, tôi nghe thấy một âm thanh khác phía sau mình.
Nghe có vẻ như thứ gì đó đang bị kéo lê trên mặt đất. Tôi chĩa đèn pin về phía nguồn âm thanh – đến đống xác chết. Dần dần, tôi di chuyển chùm sáng từ phải sang trái qua các xác chết vẫn được che phủ bởi quần áo.
Trái tim tôi đập nhanh hơn nữa khi nhìn vào đống xác bên trái. Một trong những chiếc áo khoác vừa rơi ra và nơi từng có một cơ thể, giữa hai cơ thể khác, giờ đã biến mất. Tiếng kéo sột soạt lại tiếp tục vang lên.
Tôi di chuyển đèn pin và thấy xác của một người phụ nữ nằm trên mặt đất. Rồi cô ta lơ lửng trong bóng tối thêm vài inch với tiếng kéo tương tự, chỉ để lại đôi chân lấp ló. Tôi hướng đèn pin lên cao hơn, ngây người nhìn vào đôi mắt mở to của người phụ nữ đang nhìn lên bầu trời với khuôn mặt vô cảm. Nhưng đó không phải là điều làm tôi sợ hãi.
Nắm chặt mái tóc của cô ấy, ngay rìa ánh sáng, là một bàn tay gầy gò, đen đúa nhưng cơ bắp. Hai đôi mắt phát sáng do phản chiếu lại từ đèn pin và ngay khi sinh vật nhìn thấy tôi, nó phát ra một tiếng thét ngắn (khoảng một phần nghìn giây) và chạy đi bằng những bước rầm rập cực kỳ nhanh chóng, mờ dần sau tán cây. Nó ngay lập tức kéo theo người phụ nữ chìm sâu vào bóng tối.
Tôi đánh rơi đèn pin và chạy trở lại nơi trú ấn. Vừa hấp tập lèn chặt lối ra với hành lý, tôi vừa thở hổn hển. Khá ngạc nhiên rằng không ai bị thức giấc khi nghe tiếng ồn mình gây nên, tôi trở về chỗ ngồi, gắng che đậy bản thân hết mức có thể, không quên để mắt tới cửa ra vào. Suốt đêm dài, tôi cứ có cảm giác mình bị một bàn tay gầy guộc chạm vào, nhưng bất cứ khi nào mở mắt ra, mọi chuyện đều biến mất.
Đến sớm bình mình, cuối cùng tôi cũng ngủ thiếp đi rồi lại bị đánh thức bởi tiếng hót líu lo của loài chim và tiếng trao đổi lao xao bên ngoài. Tôi thở phào nhẹ nhõm, cơn ác mộng vừa mới đây đã in sâu trong tâm trí. Gần những cái xác, Norton và Will đang có cuộc thảo luận vô cùng sôi nổi.
Tôi đến gần, thắc mắc rằng họ đang nói về cái gì.
‘Một trong số mấy người chết đã biến mất. Có thể là do gấu rừng gây nên’ – Norton đặt giả thuyết.
Tôi nhìn qua vai họ về phía các thi thể và thấy khoảng trống vừa đủ để đặt một người. Và hơn thế nữa, những dấu vết đặc biệt bị kéo lê đã trải dài khắp mặt đất rồi biến mất sau rừng cây phía trước.