Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bậc thầy dùng từ. Cách dùng từ của Cụ rất đắt, và có thể nói là chuẩn mực.
Sinh thời Bác đã lên án gay gắt thói “dùng chữ tùy tiện’, đặc biệt là dùng từ mượn: “Chúng ta không chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ
thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả
tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu.” (Trích “Sửa đổi lối làm việc”-X.Y.Z)
Người phê bình:
“Tục ngữ có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Nói cũng phải học, mà
phải chịu khó học mới được. Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất
thiết thực, mà lại rất giản đơn. Anh em đi tuyên truyền chưa học được cách nói đó,
cho nên khi viết, khi nói, khô khan, cứng nhắc, không hoạt bát, không thiết thực.
Tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng
Trung Quốc. Nhưng phải có chừng có mực. Tiếng nào ta sẵn có thì dùng tiếng ta.
Có nhiều người có bệnh “dùng chữ Hán”, những tiếng ta sẵn có không dùng mà dùng chữ Hán cho bằng được. Thí dụ: Ba tháng không nói ba tháng mà nói
“tam cá nguyệt”. Xem xét, không nói xem xét mà nói “quan sát”, v.v..
Nhưng sẽ “tả” quá nếu những chữ Hán đã hoá thành tiếng ta, ai cũng hiểu, mà
cố ý không dùng. Thí dụ: Độc lập mà nói “đứng một”, du kích thì nói “đánh chơi”.
Thế cũng là TẾU.”
Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến việc làm cho tiếng Việt chúng ta ngày càng trong sáng. Bác đã thay rất nhiều chữ Hán – Việt dùng quen từ lâu ra tiếng thuần Việt rất hay như “vùng trời”, “vùng biển” thay cho “không phận”, “hải phận” v.v… Có một từ Hán – Việt mà Bộ Ngoại giao, Văn phòng Thủ tướng, Ban Biên tập báo Nhân Dân muốn thay đổi bằng chữ thuần Việt nhưng phải mất nhiều thời gian mới vượt qua được thói giữ cái cũ mới thay được. Đó là cụm từ “bị vong lục” thay bằng “bản ghi nhớ”. Rất sáng rõ, rất đúng, rất hay!.
Bác rất chú trọng việc dùng từ Hán Việt, sao cho PHÙ HỢP với đối tượng và hoàn cảnh nói-viết cụ thể. Người đã chỉ ra một cách cặn kẽ rằng, trường hợp nào có thể thay thế bằng từ thuần Việt thì nên thay để dân chúng dễ hiểu; còn từ nào, bất đắc dĩ không thay được thì thôi. Ví dụ: Hồng thập tự, Không phận, Hải phận, Phi cơ, Hỏa xa… có thể thay bằng Chữ thập đỏ, Vùng trời, Vùng biển, Máy bay, Xe lửa. Còn các từ: Phụ nữ, Du kích, Dân quân, Hành chính… không nên thay bằng Hội đàn bà (trong Hội phụ nữ), hay Báo đàn bà (trong Báo phụ nữ). Và cũng không nên thay Đội du kích bằng Đội đánh chơi; chiến thuật du kích bằng chiến thuật đánh chơi. Và đến nay vẫn chưa có từ nào khác thay cho các từ Dân quân, Hành chính một cách thích hợp cả 🤣
Tháng 3-1966 gặp gỡ môt số phụ huynh và học sinh Hà Tĩnh, Bác nói: “Phụ huynh là cha anh. Ngày xưa phong kiến trọng nam khinh nữ, nên chỉ nói đến cha anh, xem nhẹ vai trò của mẹ… Ta có từ cha mẹ thì cứ gì phải dùng từ phụ huynh. Còn học sinh thì ta dùng học trò cũng được. Từ nào ta thiếu thì hãy mượn”.
Năm 1967 về thăm một công ty vận tải đường thủy, một đồng chí dùng chữ “mã lực”, Bác nói: “Gọi là sức ngựa chứ đừng gọi mã lực.”
Cuối tháng 10-1951 lớp học chính trị khoá 2 của Tổng cục Chính trị họp sơ kết. Bác đến thăm, Người ngắm nhìn các khẩu hiệu dán xung quanh vách nứa và chỉ tay vào một khẩu hiệu “Tích cực để tiểu kết thành công”, Người hỏi:
– Các chú bị bệnh gì vậy?
Không riêng đồng chí hiệu trưởng, tất cả đều ngạc nhiên nhìn Bác, chờ đợi sự giải thích, Bác mỉm cười nói:
Sách thuốc chữ Hán cũ nói về bệnh “tiểu kết”. Bác nghĩ: chả nhẽ các chú lại mắc bệnh tiểu kết cả à? 🤣🤣🤣
Tiểu kết, trong tiếng Hán về bệnh học là bệnh bí đái🤣 . Bác phê bình cách dùng sai chữ. Từ đó về sau đều đổi thành “sơ kết”. Tiểu kết ngày nay vẫn được dùng nhưng ít, chỉ thường có trong các luận văn khoa học.
Một đồng chí bộ đội kể lại một lần Bác đến thăm đơn vị, Bác hỏi:
– Vừa rồi Bác thấy chú báo cáo: “Quân số hiện diện”, vậy hiện diện là cái gì?
– Dạ là quân số có mặt ạ!
– Sao chú không nói ngay như vậy Bác nghe có dễ hiểu hơn không? Thế xạ kích là cái gì?
– Dạ, là tập bắn súng ạ!
– Vậy bắn súng lần thứ nhất “cự ly” bao nhiêu?
Anh hiểu Bác phê bình, nên vội báo cáo ngay:
– Thưa Bác tập bắn lần thứ nhất tầm xa là hai trăm mét ạ!
Đến thăm một trường dạy múa, Bác nhìn mọi người, cười hiền hậu và hỏi:
_Các cháu đang tập môn gì?
– Dạ thưa Bác, giờ này chúng cháu đang tập vũ ạ!
Bác cười hóm hỉnh: – “Vũ” là gì nhỉ?
Một đồng chí vội thưa:- Dạ, thưa Bác là tập múa ạ.
– Ừ, thế sao không gọi là múa cho dễ hiểu?
Bác đến trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, một cán bộ lên giới thiệu Bác sẽ “huấn thị” cho chúng ta. Bác bảo: “Tôi nói chuyện chứ có “huấn thị” gì đâu!”.
Nhưng cũng chính Người lại dùng chữ nước ngoài rất đắc địa, tức là dùng đúng thời điểm, giàu ý nghĩa nhất.
Năm 1946 Bác dặn một cán bộ chuẩn bị sang bên kia biên giới công tác: “Bọn đặc vụ thân Pháp đang ráo riết chống phá ta. Khi sang giao thiệp, có gì đáng nói hãy nói cái gì không đáng nói thì đừng nói. Chú đừng thật thà quá. Đi với Phật phải mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Các chú giữ yên biên giới là tốt, nhưng phải nhớ: “Cư yên tư nguy. Cư trị bất vong loạn”. Chú có hiểu hai câu đó không? (Lúc sống yên ổn, phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Lúc sống thái bình phải nghĩ đến khi có loạn). Ngày 31-5-1946, trước lúc lên máy bay sang Pháp, Người nắm tay cụ Huỳnh Thúc Kháng, nói: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ dĩ bất biến ứng vạn biến”. Vì là những việc hệ trọng liên quan đến sự an nguy của cả một quốc gia, đối tượng giao tiếp lại là những bậc Nho học nên việc dùng từ Hán Việt như trên là cực kỳ tinh tế, hàm súc về lời mà sâu xa về ý tứ.
Dưới đây là Thư gửi Nguyễn Sơn, nguyên bản viết bằng chữ Hán:
Tặng Sơn đệ:
Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viên
Hạnh dục phương
(Cái gan cần lớn
Cái tâm nên tế nhị, chín chắn
Cái trí phải suy nghĩ toàn diện
Đức hạnh phải vuông vắn, ngay thẳng)
Vì Nguyễn Sơn là một tướng quân sự giỏi, lại giỏi cả thơ văn, giỏi chữ Hán, hiểu biết nhiều, tính tình lại khảng khái có phần nóng nảy nên lời thư của Bác đều nói đúng về con người vị tướng này. Bác rất hiểu tướng của mình, chả thế mà khi đọc thư xong Nguyễn Sơn càng thêm khâm phục kính trọng người viết bội phần.
Trên báo Cứu quốc số 2623 ngày 26-6-1954 Bác có bài Chữ Đại thêm một dấu chấm nêu kinh nghiệm đấu tranh của các cụ trong việc viết biểu ngữ khi Pháp bắt các cụ đi biểu tình ủng hộ Bảo Đại: “Các cụ viết “Bảo Đại vạn tuế” nhưng thêm một chấm về phía tay phải trên chữ Đại, thành ra là “Bảo Khuyển vạn tuế”. Tuy là chỉ giới thiệu một cách đấu tranh của các cụ nhưng cho thấy sự hiểu biết rộng, thâm thúy 🤣
Bà Nguyễn Đình Chi kể, Tết Nguyên Đán 1969 bà tặng Bác 4 thấu mứt do chính tay bà làm. Bác bảo người phục vụ dọn ra bàn để mọi người cùng ăn luôn mà không cần sự kiểm tra an toàn nào. “Thấy Bác chỉ dùng món mứt chanh, tôi thưa Bác xin Bác xơi mứt bí, mứt cam hoặc mứt quất vì mứt chanh đắng. Bác cảm ơn và đáp một cách thâm thúy: – Phải có cam, có khổ chứ!
Bác vui vẻ miệng nói và tay xóc mứt cam ăn…”
Vào một buổi tối tại Việt Bắc, Bác mời Hội đồng Chính phủ họp để trao Huân chương cho Bác sỹ Tôn Thất Tùng, Người nói: “Chú Tùng là một Xidovan (Cidovant) mà nay được Chính phủ ta tặng Huân chương. Chú phải cố gắng hơn nữa!”.
Những ai hiểu sâu rộng văn hóa Pháp sẽ hiểu Cidovant – danh từ mà Cách mạng Pháp 1789 dành cho các nhà quý tộc.
Chỉ một từ này mà có nhiều ẩn ý: Một là rất kính trọng tài năng, nhân cách của “Chú Tùng”; hai là “Chú Tùng” đã từng là “một nhà quý tộc” Pháp, có công với nước Pháp, nay được Chính phủ ta tặng Huân chương, có nghĩa là Chính phủ rất biết trọng dụng nhân tài, dù người tài đó đã từng phục vụ nước Pháp, mà nay quân Pháp lại đang đánh ta. Và còn toát lên một ý khuyến khích, Bác sỹ Tôn Thất Tùng thật đúng như “một Xidovan”, một Xidovan của cách mạng Việt Nam.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có nhiều nhà báo nước ngoài đến Việt Nam và viết bài ca ngợi, với các tít như: “Bài học Việt Nam”, “Tấm gương Việt Nam”… Bác bảo: chỉ nên dùng chữ “kinh nghiệm” Việt Nam thôi!
Trong tâm niệm của Hồ Chủ tịch, nói – viết phải phản ánh sự thật; sáng tác văn học, làm báo… cần phải trên cơ sở hiện thực.
Một văn kiện khác được đem đến Bác duyệt để đọc ở Hội nghị Pa-ri, năm 1968, có câu: “Thật rõ ràng như ban ngày, đế quốc Mỹ là kẻ xâm lược!”. Bác liền cầm bút gạch thật đậm các chữ “rõ ràng như ban ngày” rồi hỏi người đến duyệt văn kiện ấy: “Còn rõ ràng như ban ngày nữa không? “Đế quốc Mỹ là kẻ xâm lược, rõ lắm rồi!”. Báo Nhân Dân thời chống Mỹ có lần đưa tin: Hôm nay quân và dân ta hạ được 5 máy bay F.105 của Mỹ và bắt sống một số phi công Mỹ. Đọc tin này, Bác nói: Nó có sống thì mới bắt, còn nó chết thì chỉ nhặt xác thôi. Theo ý Người, chữ “sống” trong “bắt sống” là thừa, nếu bớt đi, vừa bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt, vừa tiết kiệm cho in ấn.
Bác Hồ rất coi trọng TRẬT TỰ TỪ trong tiếng Việt. Có báo viết: “Đảng, chính quyền các cấp đang tích cực triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương thứ XVI”. Đọc xong câu này, Bác bảo: Trung ương chỉ có một chứ đâu có 16 Trung ương! Theo Người, câu này phải sửa lại ở cụm từ sau đây: triển khai Nghị quyết Hội nghi lần thứ 16 của Ban chấp hành Trung ương… Cũng theo trật tự từ của tiếng Việt thì không nên viết: “Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 65 của Ngài”, mà phải viết: Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 65 ngày sinh của Ngài mới đúng. Bởi lẽ, người được chúc mừng sinh nhật ấy chỉ sinh ra một lần, nên không có ngày sinh lần thứ 65! Ngôn ngữ tiếng Việt được cấu trúc theo trật tự “toa tàu”, khác với tiếng Nga và một số ngôn ngữ trên thế giới. Nếu không nói-viết theo trật tự của tiếng Việt thì người nước ngoài sẽ khó hiểu và dịch không chính xác ra các ngôn ngữ khác.
Một lần Bác đọc trong tờ Nhân Dân, có câu: “Nhân đọc sách Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Hồ Chủ tịch”, Người gọi ngay đồng chí Hoàng Tùng (lúc đó là Tổng biên tập) đến và hỏi: “Thế này thì oan cho Bác quá! Bác có chủ nghĩa cá nhân đâu mà quét?”🙂🤣😂 Số là, Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân là cuốn sách Bác viết, nhưng không được đặt trong ngoặc kép hoặc in nghiêng để phân biệt với ý khác trong đoạn văn, nên gây hiểu lầm.
