Theo các tài liệu lịch sử ghi lại, bà Mẫn Lệ phi vốn người ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, sau chuyển vào sinh sống ở Quảng Trị. Do cha mắc tội nên bà bị sung làm nô tỳ trong cung phủ.
Còn theo truyền tụng tại quê hương bà thì bà phi họ Lê người làng Sa Lung, châu Minh Linh (tức Vĩnh Linh, Quảng Trị ngày nay) nhưng quê gốc ở huyện Nam Trực (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), đời cha của bà đã di cư đến đó sinh sống sau cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông. Bố mẹ qua đời để lại các con thơ dại, cậu ruột là Lê Quang Phú đã đem ba anh em bà về trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
Khác với những gì ghi trong sách Đại Việt thông sử, truyền tụng tại địa phương cho biết bà phi họ Lê không phải vì gia đình mắc tội mà bị bắt làm nô tì mà là trước khi đi khai khẩn vùng đất mới ở Minh Linh (Quảng Trị ngày nay), người cậu đã gửi bà vào cung phủ để làm người hầu hạ.
Lúc Mẫn Lệ Vương (tức vua Lê Uy Mục) còn ở tiềm đế và đang theo học với vị vương phó, bà cũng đến học tập ở đây. Vương thấy bà lấy làm vừa ý, hai bên trở nên quyến luyến nhau. Một hôm, Vương dùng chân khèo chân bà, khi về bà đem chuyện ấy kể lại với sư mẫu, sư mẫu nói rằng: “Vậy là Vương thử lòng con, sau này nếu con thấy Vương làm như thế thì dùng hai tay che chân của Vương lại để tỏ ý thân”. Hôm sau, bà làm đúng như kế của sư mẫu đã bày, Vương rất vừa lòng, từ đó về sau không cố ý chọc ghẹo nữa.
Riêng bà cũng giữ kín mối tình đẹp chẳng hề lộ ra. Đến khi Vương lên ngôi, bà được tuyển vào hậu cung. Vốn là người thông minh nên bà được yêu chuộng hơn cả, vì vậy bà được thăng lên làm hàng phi. Thế là nhờ có nhan sắc, lại thêm đức tính cần mẫn, siêng năng, thông minh, hoạt bát nên từ một người hầu, bà được Lê Uy Mục đưa vào hậu cung phong làm Vương phi.
Cũng từ mối quan hệ đó mà người anh trai và người em trai của bà là được ban tước hiệu, được triều đình giao trọng trách tiếp tục khai phá thêm đất hoang, chiêu mộ dân chúng, lập ấp dựng làng tại nhiều nơi từ vùng Sen Thủy (tỉnh Quảng Bình hiện nay) cho đến vùng Hạ Bạn (nay thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị). Sách “Ô châu cận lục” cho hay anh trai bà vương phi là Lê Viết Đáo còn gọi là ông Phủ được phong là Hiệu lệnh xá nhân tư mã chỉ huy sứ, sau làm Cai tri bản châu Minh Linh, nhờ lập công lớn nên còn được phong tước Tấn Trung tử.
Người em trai (không rõ tên) được phong là Kinh lược sứ, một chức quan đại diện cho nhà vua đi thi hành một sứ mệnh cụ thể và nhất thời, ở đây nhiệm vụ chính của ông là lo việc khẩn hoang, lập làng mới.
Tháng 12 năm Kỷ Tị (1509) Lê Uy Mục bị truất ngôi và giáng xuống làm Mẫn Lệ Công, sau đó bị giết nên đời sau thường gọi cho bà Vương phi họ Lê là Mẫn Lệ phi hoặc Lê phi. Sau khi bà mất, người dân nhớ ơn bà và anh, em trai là những người có công trong việc mở mang xóm làng nên đã lập đền thờ ở một số nơi nhưng trải bao biến động tất cả đều bị phá hủy, riêng ngôi miếu chính thờ bà thì vẫn được giữ gìn cho đến tận ngày nay.
Miếu được dựng tại khu vực Lòi Xó Rọ thuộc làng Sa Long (hay Sa Trung, Sa Lung của huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị) được gọi bằng nhiều tên khác nhau như miếu Bà, miếu bà Vương phi họ Lê, miếu bà Chúa, miếu bà Mẫn Lệ phi, Nghè bà Chúa,… và thú vị nhất là tên gọi miếu bà chúa Râm với ý coi bà chúa như một cây đại thụ toả bóng râm mát, che chở cho dân chúng.
“Đi đâu cũng nhớ tháng Ba/Hai bảy giỗ bà, tảo mộ vui xuân/ Các nơi nô nức xa, gần/Vĩnh Trung, Vĩnh Thuỷ, Quảng Bình về đây…”.
Đó cũng như lời nhắc nhở của tiền nhân cho hậu thế phải biết ghi nhớ, trân trọng và yêu quý, gìn giữ từng tấc đất mà cha ông ta đã đổ mồ hôi, xương máu để khai phá vùng đất mới, mở rộng cương thổ cho đời đời cháu con.
Nguồn: Dân Việt
Art by Minh Anh Nguyễn
