NHẤT GIAI HIỀN PHI NGÔ THỊ CHÍNH – ÂN SỦNG MỘT ĐỜI

Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hiền phi húy là Chính (政), còn có húy khác là Kiều (嬌). Bà sinh năm 1792, nguyên quán ở huyện Đăng Xương, phủ Thừa Thiên, là trưởng nữ của tướng Ngô Văn Sở, nguyên là tướng của nhà Tây Sơn. Sau cuộc tranh quyền bính giữa đám triều thần đời vua Quang Toản, đã âm thầm bỏ trốn vào nam quy về dưới trướng Nguyễn Ánh. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, hiệu Gia Long, ông Sở được phong Chưởng Cơ làm Quản Đạo ở trấn Thanh Hóa Ngoại (tỉnh Ninh Bình ngày nay). Sau này, trong cuộc thanh trừng tàn khốc, Gia Long biết được viên tướng họ Ngô này từng là một trọng thần của nhà Tây Sơn, nhưng không hạ lệnh ban chết mà chỉ cách chức. 

Ngô Thị Chính lớn lên, dung mạo thập phần diễm lệ, cử chỉ đoan trang lại cần mẫn, thông minh nức tiếng, năm 14-15 tuổi thì được chọn vào tiềm để hầu hạ Hoàng tứ tử Nguyễn Phúc Đảm. Trước đó không lâu, Hoàng tử Đảm cũng đã nạp thiên kim nhà khai quốc thần Hồ Văn Bôi là Hồ Thị Hoa làm thiếp, sinh ra Hoàng trưởng tử Miên Tông. Sau khi nhập phủ, Ngô thị cũng liên tục sinh hạ tử nữ, cả thảy 6 người, quả thực là người có phúc, ân sủng vô hạn lại có duyên với đường con cái. 

Năm 1820, Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy hiệu là Minh Mạng. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, vua phong cho bà làm Cung tần, sau tấn lên làm Hiền Tần. Theo quy chế hậu cung trước năm Minh Mạng thứ 17, trên bậc Tần còn có các bậc Tam phi và Tam tu nhưng thời điểm đó đều để trống, nên Ngô thị danh chính ngôn thuận nắm địa vị cao nhất trong hậu cung. Ngay tới vị thiên kim được vào tiềm để đầu tiên là Hồ Thị Hoa sau khi qua đời cũng chỉ được vua truy phong Chiêu nghi, xếp dưới cả Cửu tần. Theo ghi chép, năm Minh Mạng thứ 14, nhà vua định chế độ lương bổng cho nội cung, đứng đầu là Hiền tần với 350 quan tiền và 160 phương gạo mỗi năm, kế tiếp là Tiệp dư, Mỹ nhân, Tài nhân… đủ thấy vị phân của Ngô Thị Chính lúc bấy giờ quả thực vượt xa những nữ nhân khác bên cạnh Minh Mạng. 

Đến năm 1836, cấp bậc hậu cung cải tổ, Hiền tần Ngô thị được tấn phong làm Hiền phi, thuộc hàng Nhất giai, củng cố địa vị chấp chưởng nội cung. Chiêu nghi Hồ thị lúc này được truy tôn làm Nhất giai Thần phi, tuy cùng hàng Nhất giai nhưng vẫn xếp dưới Hiền phi. 

Nhờ có nhi nữ trở thành đệ nhất sủng phi bên cạnh Hoàng đế, họ Ngô cũng được hưởng lây hồng phúc. Cha bà được vua cho phục chức Chưởng Cơ, lại giao cho em trai là Ngô Văn Thắng làm cai đội. Luận về gia thế, xuất thân của Hiền phi không được tính là hiển hách nếu không muốn nói có phần tì vết bởi phụ thân bà từng làm tướng dưới triều Tây Sơn, lại từng bị tiên đế Gia Long phạt giáng chức. Ấy thế mà trong từng ấy năm, Hiền phi Ngô thị gần như độc sủng thánh ân, gia quyến nhờ thế cũng được phong quang, hẳn không phải điều ngẫu nhiên. 

Khi xưa, có vương tước công hầu nào không muốn sắp xếp con gái vào cung hầu hạ Hoàng đế. Một là củng cố địa vị gia tộc, hai là thăm dò thánh ý. Với các nàng ta, đế vương luôn giữ trong lòng thái độ thận trọng: nếu sủng ái quá ít, sẽ không khỏi làm phật lòng trọng thần, đại quan, ảnh hưởng xấu tới sự an ổn nơi tiền triều. Ngược lại, ân sủng quá cao há chẳng phải vẽ đường cho hươu chạy, gia tăng thế lực cho ngoại thích? Bởi vậy, phi tần trong cung nếu không có gia thế mới chính là gia thế tốt nhất. 

Thời phong kiến, người ta thường quan niệm mẹ quý nhờ con mà lại ít ai nhớ tới, hài tử sinh ra có được phụ thân coi trọng, nâng niu hay không cũng phụ thuộc nhiều vào địa vị của người mẹ. Hiền phi đã sinh cho Hoàng đế Minh Mạng tổng cộng 9 người con, trong đó có 5 Hoàng nam và 4 Hoàng nữ. Vua đối với những người con này vô cùng trân trọng, yêu thương. Thậm chí còn có nhiều lời đồn rằng, khi chọn người kế vị, vua Minh Mạng đã từng có ý định bỏ qua Trưởng tử Miên Tông, con trai Thần phi Hồ thị để dành ngôi vị Thái tử cho người con do Hiền phi sinh ra, Hoàng ngũ tử Miên Hoành. Sau đó, chuyện truyền đến tai Từ Thọ cung của Thuận Thiên Thái hậu, bị bà kịch liệt phản đối vì lo rằng, bỏ trưởng lập thứ, rồi đây chuyện huynh đệ tương tàn, giang sơn bất ổn là điều khó tránh nên mới bất thành. Từ xa xưa, chọn trữ quân, bao giờ cũng là lập trưởng, lập đích rồi mới tới lập hiền, lập quý. Đạo lý này, nhà vua chắc chắn hiểu rõ. Nói tới đây, đủ hiểu vị trí đặc biệt của Ngô thị trong lòng vị vua nổi tiếng tài hoa, phong lưu này. Các hoàng nữ ra đời cũng được vua cha thập phần yêu chiều, trân quý. Khi ban tên đều dùng chữ có bộ ngọc mà đặt, ngụ ý là viên ngọc quý trên tay phụ mẫu, cả đời được che chở bao bọc. 

Năm 1843 tức năm Thiệu Trị thứ 3, Hiền phi băng thệ, thụy Tuệ Khiết, sau hoàng đế Minh Mạng 2 năm. Trong tang kỳ của bà, vua Thiệu Trị cho nghỉ chầu 3 ngày, sai bộ Lễ lo liệu việc tang chu toàn. Đền thờ của bà được dựng ở xã Phú Xuân, lập mộ tại thôn Châu Chữ (nay thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế). 

Cuộc đời Nhất giai Hiền phi Ngô Thị Chính có thể được xem là may mắn so với nhiều vị tần phi thời phong kiến khi mấy chục năm từ khi được gả vào tiềm để ân sủng không suy, lại con cái đầy đàn, thậm chí đến khi đã ngoài 40 vẫn có thể sinh hạ Hoàng tử cho vua. Điều này càng chứng tỏ, thứ níu giữ trái tim Minh Mạng mà bà sở hữu không chỉ có nhan sắc một thời tuổi xuân. Thế nhưng, chuyện nhân tình thế thái, phàm có cái được thì cũng có cái mất. Tuy nói có hoàng ân che chở nhưng cuộc sống ắt cũng chẳng êm xuôi. Cũng phải nói thêm, trong 9 người con bà sinh ra, chỉ có 6 người sống được tới tuổi trưởng thành. Những đứa trẻ hoàng thất cũng tựa như những viên ngọc trên tay cha mẹ. Bề ngoài thì tôn quý cao sang, nhưng bên trong kỳ thực lại muôn vàn yếu đuối và dễ bị tổn thương. Liệu có người mẹ nào không xót, không đau khi chứng kiến những đứa con thơ còn đỏ hỏn cứ lần lượt mà ra đi bởi những minh tranh ám đấu chốn hậu cung đầy rẫy thị phi? Không dừng lại ở đó, thời gian xói mòn đi đời người, người đầu gối tay ấp bao năm cũng ra đi không một lời từ biệt. Tang chồng cùng tang con, có phong quang hay phân vị cao quý nào bù đắp được không? 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *