NHỮNG CÂU CHUYỆN XUNG QUANH VUA ĐINH TIÊN HOÀNG

Đinh Ngọc Ánh biên soạn.

Ảnh 1. Đền thờ vua Đinh ở Trường Yên.2. Bản đồ mô tả  loạn 12 sứ quân.3. Bốn chữ “Bắc môn toả thược” trước cổng đền vua Đinh.

Dân Ninh Bình rất tự hào về Đinh Tiên Hoàng đế, vị vua nổi danh trong lịch sử Việt Nam. Sự tích vua Đinh được kể lại có nhiều tình tiết khác nhau, nhưng tình tiết nào cũng thú vị cả. Tương truyền ở động Hoa Lư ( nay thuộc xã Gia Hưng, Gia Viễn, NB) quê hương của Đinh Bộ Lĩnh có một cái đầm rất sâu. Ở đầm có con rái cá to lớn sống lâu đã thành tinh. Bà Đàm Thị (vợ của Đinh Công Trứ, mẫu thân Đinh Bộ Lĩnh) lại vẫn thường vào trong đầm tắm giặt. Cho đến một hôm, bà bị con rái cá ấy phạm vào thân thể rồi về thụ thai. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, bà Đàm Thị sinh hạ một cậu con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Đinh Bộ Lĩnh. Ít lâu sau, chồng bà là Đinh Công Trứ qua đời, con rái cá cũng bị người dân bắt được đem làm thịt. Hay tin ấy bà vội đến, nhặt xương và gói ghém để trên gác bếp. Trong sách “Bái Đính ngàn năm tâm linh huyền thoại” của nhà nghiên cứu Trương Đình Tưởng có nêu về “Truyền thuyết mả táng hàm rồng” như sau: “Dòng Đại Hoàng (sông Hoàng Long ngày nay- PV) chảy sát chân núi Kỳ Lân, tạo nên vùng nước xoáy không ai dám bơi qua. Bộ Lĩnh có tài bơi lặn, một hôm có người khách đến bờ sông Đại Hoàng, chỗ có vũng nước xoáy, gặp Đinh Bộ Lĩnh cùng các bạn chăn trâu ngụp lặn, khách hỏi: “Cậu có dám lặn xuống vực xoáy kia không?” “Sao lại không!”, Bộ Lĩnh điềm nhiên trả lời rồi lặn xuống, vừa ngoi lên, người khách hỏi: “Dưới vực xoáy có thấy gì không?” Bộ Lĩnh kể đúng những điều mình thấy. Một thời gian sau bỗng thấy vị khách đó xuất hiện mang theo một chĩnh sành bọc kín bằng vải đỏ nói với Bộ Lĩnh: “Chỉ có cậu lặn giỏi, giúp ta đặt chiếc chĩnh vào hang đá dưới vực rồi sẽ thưởng hậu” Vốn thông minh, Bộ Lĩnh lặn xuống và quan sát thấy chỗ hang đá như một miệng rồng. Không đặt chiếc chĩnh như lời người khách dặn mà để chiếc chĩnh ngoài miệng rồng rồi ngoi lên. Người khách cẩn thận hỏi lại, tin tưởng, thưởng thêm và dặn không được tiết lộ chuyện này với ai.Bộ Lĩnh về nhà kể lại cho mẹ và hỏi: “Mả bố con ở đâu?”. Lúc đó vừa đi làm về muộn, bà mẹ buột miệng nói: “Mả bố con mẹ để trên gác bếp!”.Bộ Lĩnh xuống bếp chỉ thấy một chiếc bọc bằng da gói bộ xương rái cá bèn rửa sạch bồ hóng rồi mang bọc lặn xuống đặt chính giữa miệng rồng.Chiếc hàm rồng bằng đá bỗng ngậm chặt lấy bộ hài cốt, cả vùng nước xoáy rực sáng, nước sôi lên sùng sục, sấm chớp nổi lên ầm ầm. Đinh Bộ Lĩnh phát vương từ đấy!

Cũng theo sách Việt sử Tiêu án của Ngô Thì Sỹ lại chép rằng :” Vua Đinh, tên Bộ Lĩnh, người làng Đại Hoàng, động Hoa Lư. Thân phụ vua là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, cai trị Hoan Châu, mẹ là họ Đàm, nằm mộng thấy có một người lớn tay cầm cái ấn vua đến xin làm con, bèn có mang mà sinh ra vua”. Vua lớn lên có tài bơi lặn, có lần theo bạn bè đánh cá trên sông, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ viên ngọc này phát ra tia sáng rực rỡ, mới nói rằng: “Anh này ngày sau cao quý không thể nói được”. Vua lớn lên sức khỏe hơn người, thường đi chăn trâu với lũ trẻ. Trong các cuộc giao đấu với chúng vua đều thắng nên được lũ trẻ tôn làm đàn anh. Mỗi khi chơi đùa, lũ trẻ giao tay nhau cho vua ngồi lên, khiêng đi làm xe kiệu, vua lấy bông lau làm cờ, lính dàn ra hai bên, rước đi làm như nghị vệ thiên tử. Các vùng núi từ Xích Thổ qua Gia Thủy, về đến các xã Gia Hưng,Gia Hòa thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình bây giờ đều có dấu tích  hoạt động của vua thời trẻ, như Viến, Thung Lau, Thung Lá, Động Hoa Lư là nơi nhà vua tập trận và đóng quân. Tại xã Gia Hòa bây giờ có Đồi Ngô là nơi quân địch giả định (giống như quân xanh bây giờ) để cho vua đánh tập. Đồi Ngau (tên gọi bây giờ)  thực ra là đồi Ngưu nơi nhà vua tiến quân, đồi Phát Tướng là nơi nhà vua điểm tướng, đồi Phu Gía là nơi lính khênh kiệu cho vua đi. v..v.. Đã qua hàng ngàn năm vật đổi sao rời, nhưng các địa danh ấy ở xã Gia Hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.     

Bấy giờ chú ruột nhà vua là Đinh Dự có một con trâu rất béo, sau lúc tập trận, vua liền giết thịt rồi lột da căng lên làm nồi, cho nước vào cùng với xương thịt rồi đốt lửa đun chín (nồi da nấu thịt) để khao bọn trẻ. Người chú mất trâu giận lắm mới cầm gươm  đi tìm cháu, kíp đuổi đến bờ sông nhà vua vội gọi người lái đò có tên là Long ( Long chữ Hán còn có nghĩa là Rống) xin sang sông, song chằng thấy ai ra đón. Bất chợt lại có con rồng vàng nổi lên mặt nước đỡ vua sang qua sông, lại có mây ngũ sắc che trên đầu nhà vua. Ông chú thấy thế nghĩ cháu mình có chân mệnh đế vương mới lấy làm hoảng sợ liền lên hòn núi cao cắm gươm vái lạy cháu. Con sông nơi nhà vua đi qua gọi là sông Hoàng Long, núi ấy sau gọi là núi Kiếm Lĩnh (Cắm Gươm) đứng ngay cạnh đê sông Hoàng Long. Đò không có người đón vua gọi là đò Gián, còn gọi là Gián Khẩu. Con đường nhà vua chạy từ Thị trấn Me bây giờ đến đầu cầu sông Hoàng Long qua xã Gia Tiến gọi là đường Tiến Yết, tương truyền   nhà vua chạy đến đâu đường nổi lên đến đó, sau tuy bị phá bỏ nhiều lần nhưng vẫn còn dấu tích. Gần đây con đường này đã được nâng cấp rất to rộng.

Thời vua Đinh mới dựng nghiệp, hồi ấy Ngô Vương (Ngô Quyền) vừa mất, các tướng dưới quyền chia nhau mỗi người một phương cát cứ rồi xưng hùng xưng bá, tranh chấp nhau mãi không thôi. Sử cũ gọi là Loạn 12 sứ quân (Thập nhị sứ quân). Đinh Bộ Lĩnh đã đã tập hợp quanh mình nhiều bạn bè cùng trang lứa như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ, và nhận được sự tin tưởng nể vì của các bậc bô lão trong vùng, dần dần nhà vua đã trở thành người cầm đầu của cả châu Đại Hoàng thời ấy. Đinh Bộ Lĩnh còn thu phục được cả Lê Hoàn (sau này là vua Lê Đại Hành ) rồi cùng các tướng đánh dẹp 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt sau 1.000 năm Bắc thuộc, đồng thời cho đúc tiền Thái Bình thông bảo để khẳng định nền độc lập tự chủ. 

Nước ta kể từ sau vua Đinh thì các vua các đời Tiền Lê , Nhà Lý, Nhà Trần, Hậu Lê sau này khi lên ngôi đều xưng Hoàng đế ngang hàng với các vua Trung Quốc. Niềm tự hào này sau được Nguyễn Trãi đã khẳng định lại một lần nữa trong Bình Ngô Đại cáo “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập, cùng với Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.” 

Vua Đinh Tiên Hoàng còn cử con trai cả là Đinh Liễn đi sứ Trung Quốc. Tương truyền vua Tống căn vặn Đinh Liễn về việc vua Đinh xưng đế, Đinh Liễn trả lời, đại ý Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc xưng đế thì cũng như vua Đinh diệt 12 sứ quân  cũng có thể xưng đế được. Vua Đinh tuy lên ngôi, nhưng vẫn luôn lo phòng thủ đề phòng kẻ thù từ Phương bắc, nay trước cửa đền vua Đinh vẫn còn chữ “Bắc Môn tỏa thược” ý là khóa cửa phương bắc lại,  một thông điệp cho đến nay vẫn có ý nghĩa.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *