An Toàn Hoàng hậu Đàm thị là vợ Lý Cao Tông và là sinh mẫu của Lý Huệ Tông, tức nội tổ mẫu của Lý Chiêu Hoàng và Thuận Thiên Công chúa. Bà sống trong thời kỳ chuyển giao triều đại đầy hỗn loạn, rối ren với tham vọng cùng quyền thế ngút trời của mình đã gây ra không ít sóng gió nơi tiền triều và hậu cung, gián tiếp gây nên sự suy vong của một vương triều từng phồn hoa thịnh thế.
Không có ghi chép rõ ràng về quê quán cũng như xuất thân của Đàm thị, chỉ biết bà là con gái của Đại tướng quân Đàm Thì Phụng. Sau khi tiến cung năm 1186 được Cao Tông đế sơ phong làm An Toàn Nguyên phi. Tới năm Giáp Dần (1194), bà hạ sinh Hoàng tử Lý Hạo Sảm. Về việc này, Đại Việt Sử lược ghi nhận đây là người con trai thứ ba của Cao Tông Hoàng đế, trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư lại chép với danh xưng “trưởng tử”.
Để giải thích cho việc này, có thể hiểu rằng trước đó, nhà vua đã có 2 vị Hoàng tử nhưng đều yểu mệnh, không được ghi chép rõ ràng trong chính sử. Năm 14 tuổi, Lý Hạo Sảm được phong làm Hoàng Thái tử, danh chính ngôn thuận kế thừa ngôi báu. Mẫu bằng tử quý, Nguyên phi Đàm thị cũng từ ấy mà bước lên bảo tọa trung cung, hiệu là An Toàn Hoàng hậu. Lúc này, khi địa vị đã vững, Hoàng hậu dần lộ rõ tham vọng cùng khao khát quyền lực tột cùng. Bằng việc cất nhắc người em Đàm Dĩ Mông, vốn chỉ một Hỏa đầu thời Lý Anh Tông lên thành đại thần nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu của triều đình, bà từng bước thâu tóm quyền bính về tay bản thân và gia tộc.
Năm 1209, Quách Bốc kéo quân về Thăng Long, gây ra biến loạn Quách Bốc, buộc Cao Tông Hoàng đế phải lánh nạn tại Quy Hóa (Vĩnh Phú, Yên Bái). Hoàng thái tử Lý Hạo Sảm cùng Đàm Hoàng hậu phải chạy về Hải Ấp, vùng đất bấy giờ do họ Trần làm chủ nương nhờ. Nào ngờ trong thời gian ấy, vị Thái tử Lý triều đem lòng cảm mến Trần Thị Dung – con gái Trần Lý. Cơ hội tốt như vậy chẳng dễ mà tới, Trần Lý hết lòng vun đắp cho mối tình này. Đại sự thành, Trần thị được gả cho Hoàng Thái tử, sơ phong làm Trần phi. Thời cơ nay đã chín muồi, cha và cậu ruột của Trần Thị Dung là Tô Trung Từ quyết định tập hợp binh mã, tiến về kinh dẹp phản quân Quách Bốc, cứu Lý triều trong lúc nguy nan, cũng đồng thời gia tăng quyền lực và thanh thế cho dòng họ Trần. Trong trận chiến này, Trần Lý đã tử nạn, quân đội họ Trần từ đây về tay Tô Trung Từ.
Mùa xuân năm 1210, sau khi loạn đã được dẹp yên, Hoàng đế cùng Thái tử Sảm đều được rước về kinh. Thế nhưng, vị Trần phi kia lại không thể danh chính ngôn thuận mà về thành Thăng Long hưởng cuộc sống tường son gác tía, bị bỏ lại tại quê nhà Hải Ấp. Có nhiều lý giải về nguyên nhân của việc này, trong đó được nhắc đến nhiều nhất là sự đứng sau của vị Hoàng Hậu quyền lực Đàm thị. Tâm kế thâm sâu, lại thập phần muốn bảo toàn quyền lợi cho gia tộc, không khó để Đàm Hậu nhận ra mưu đồ ẩn sau những hành động của nhà họ Trần.
Thời phong kiến, hôn nhân được xem là một công cụ chính trị vừa mềm dẻo, lại vô cùng hữu hiệu, tựa như một sợi dây ràng buộc quyền lực và lợi ích đôi bên. Họ Trần nay đã lập được đại công, nếu có thêm một nữ nhi đắc lực tạo vây cánh chốn hậu cung, chiếm được sủng ái của Thái tử Sảm, khác nào hổ mọc thêm cánh? Đàm thị khi ấy liệu có còn chỗ đứng vững chắc như hiện tại? Việc bà lệnh giữ Trần Thị Dung lại Hải Ấp, không cho về kinh quả thực là một nước cờ cao minh, chặt đứt hậu họa. Thái tử hồi loan, trở lại chốn cung đình xa hoa với người hầu kẻ hạ, có lẽ sẽ nhanh chóng mà quên đi cô gái từng phải lòng nơi chạy loạn. Huống hồ Hoàng Hậu ngày ngày kề cận, khuyên nhủ con trai, chuyện Thái tử Sảm hồi tâm chuyển ý, từ bỏ Trần thị là không khó.
Thế nhưng, mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên. Năm 1210, Cao Tông đế băng hà, Thái Tử Lý Hạo Sảm nối ngôi, tức Lý Huệ Tông. Vua vẫn không quên tình cũ, nay lại đã ở ngôi cửu ngũ chí tôn, bèn ra lệnh cho đón Trần Thị Dung về cung. Lúc này, Đàm hậu cũng đã được xưng tôn làm Hoàng Thái hậu, đích thân cùng Huệ Tông nghe chính sự. Với quyền lực khi ấy, bà không dễ gì để cho Trần thị suôn sẻ hồi kinh, chính thức có danh có phận. Đến cuối cùng, tuy không thể ngăn cản nhưng dưới tác động của Thái Hậu, Trần thị dù là con gái công thần, lại là phác thê nhưng cũng chỉ được sắc phong làm Nguyên phi. Anh trai Trần Thị Dung là Trần Tự Khánh sau đó cũng được vua ban vị Chương Thành hầu.
Năm 1211, Tô Trung Từ bị giết, nhà Lý cũng vì thế mà thoát khỏi thế kèm cặp của kẻ này. Tự Khánh bấy giờ lại dẫn quân đi đánh khắp nơi, thu phục được nhiều đất, đặc biệt chiếm được Hồng Châu, rồi cả vùng từ Lạng châu đến núi Tam Trĩ hết thảy đều là đất của họ Trần. Thế lực họ Trần lớn mạnh thêm bao nhiêu, cái gai trong mắt Đàm Thái hậu càng lớn thêm chừng ấy. Sớm đã có lòng nghi ngờ, lại thêm sớ hạch tội của họ Đoàn mà đứng đầu là Đoàn Thượng, bà càng quyết tâm diệt trừ mối hiểm họa phản nghịch Trần Tự Khánh. Huệ Tông đế cũng chẳng thể làm ngơ, lập tức giáng Nguyên phi Trần thị xuống làm Ngự nữ, lại hạ chiếu phong tước hầu cho Đoàn Thượng, kêu gọi các chư hầu tiêu diệt Tự Khánh.
Sẵn lòng đề phòng, Đàm Thái hậu không ngại trừ khử bất cứ kẻ nào có khả năng lật đổ hoàng vị của con trai. Đàm thị ra lệnh bắt giữ rồi đem ba người con trai của Tiên đế Cao Tông là Nhân Quốc vương, Lục Hoàng tử, Thất Hoàng tử cùng các thị thiếp khác dìm chết tại giếng sau cung, sau lại cho vứt ngoài cửa Lâm Quang cung. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám nhìn, chỉ có một vị quan viên bất bình với sự tàn độc của Thái hậu mà thốt lên: “Tiên quân đi đâu mà khiến cho ba người con bị hại như thế này!”.
Nào ngờ, chẳng bao lâu sau Thái hậu lại hay tin Trần Thị Dung trong bụng đã mang long thai. Hoàng đế vui mừng, phong nàng làm Thuận Trinh Phu nhân. Quân quyền mạnh hơn hoàng quyền, đạo lý này Đàm thị sao lại có thể không rõ? Đứa trẻ ra đời, nếu là một nam tử thì với binh lực Trần Tự Khánh nắm giữ khi ấy, một cuộc binh biến nổ ra, phế đi Huệ Tông rồi đưa ấu đế lên ngôi, thiên hạ về tay Trần tộc là điều nằm trong dự tính. Cái lẽ diệt cỏ phải diệt tận gốc Đàm thị rất rõ, chính vì vậy mà sự ác độc của thị lên đến đỉnh điểm khi rắp tâm sai người lén bỏ độc vào bữa ăn của con dâu. Biết chuyện, Huệ Tông một lòng muốn bảo vệ thê tử nhưng lại chẳng dám trực tiếp đối đầu với sinh mẫu, chỉ đành giữ nàng bên cạnh, chia phần ăn nhằm tránh có kẻ giở trò. Quyết không buông tha, Thái Hậu còn đích thân sai người mang chén thuốc độc đến, ép Dung vào con đường chết, may nhờ vua đến kịp thời ngăn lại, mới cứu được nàng một mạng.
Năm 1216, loạn lạc lại một lần nữa xảy ra, họ Lý giờ đây chỉ còn là hữu danh vô thực. Vua Huệ Tông đành phải quay về nương nhờ họ Trần, Thuận Trinh Phu nhân Trần Thị Dung cũng được an toàn từ ấy, sau được phong làm Thuận Trinh Hoàng hậu.
Đại Việt Sử lược ghi nhận khi vua Lý Huệ Tông xuất gia đi tu ở Chân Giáo tự, Đàm Thái hậu cũng cắt tóc đi theo. Sau ấy, không còn ghi chép nào trong sử sách về hành trạng của vị Thái Hậu này.
Trong bối cảnh rối ren, hỗn loạn đầy rẫy minh tranh ám đấu khi hoàng quyền họ Lý đã lung lay tận gốc, cũng thật khó cho một nữ nhân chốn thâm cung như Đàm thị. Không vì bản thân mà mưu tính, e khó tránh được thiệt thòi. Thế nhưng, với tham vọng ngút trời cùng dã tâm và sự tàn độc, bà đã gián tiếp đẩy Lý triều vào cửa diệt vong, cũng là đẩy bản thân và dòng họ Đàm vào tàn cục. Dung túng ngoại thích, ấy là sai lầm đầu tiên. Đàm Dĩ Mông vốn không tài cán, lại được giữ những vị trí quan trọng trong triều đình, há chẳng phải loạn càng thêm loạn? Tàn sát hoàng tự, giết hại tông thất, khiến người người kính sợ, vạn kẻ bất bình, mất đi nhân tâm, ấy là cái sai thứ hai. Một người ngồi trên ngôi cao, lại trọng dụng thân thích bất tài, dân không kính, quan không phục, há có thể xoay chuyển càn khôn, chấn hưng vương triều? Đàm Thái hậu, quả thực là một bước sai, vạn lối tắc.
Nguồn ảnh: NSND Lan Hương thủ vai Đàm Thái hậu trong bộ phim Thái sư Trần Thủ Độ
