CÂU CHUYỆN VỀ ALAN TURING – CHA ĐẺ CỦA KHOA HỌC MÁY TÍNH

Alan Mathison Turing (sinh ngày 23/6/1912 – 7/6/1954), nhà toán học và nhà logic học người Anh, được biết đến như là cha đẻ của khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Năm 1931, Turing thi vào học viện King của Đại học Cambridge và tốt nghiệp loại giỏi nhất. Sau khi tốt nghiệp, ông đến Đại học Princeton để học tiến sĩ. Sau khi Thế chiến II nổ ra, ông trở lại Cambridge. Sau đó, ông đã hỗ trợ quân đội bẻ khóa hệ thống mã hóa nổi tiếng của Đức Quốc Xã là “Enigma” và giúp quân Đồng minh giành chiến thắng trong Thế chiến II.

Thần tượng của Steve Jobs – người sáng lập ra Apple chính là Alan Turing. Người ta nói rằng Jobs đã thiết kế logo của công ty là biểu tượng hình quả táo cắn dở (táo khuyết) để tưởng nhớ Alan Turing đã chết do vô ăn một quả táo bị nhiễm kali xyanua.

1. Một tuổi thơ khác biệt.

Turing thừa hưởng sự thông minh của ông nội, anh chỉ học đọc trong ba tuần, và sau đó học cách đếm số trong thời gian ngắn hơn. Sau khi biết các con số, Turing thích đọc những con số mà anh nhìn thấy. Theo thời gian, anh hình thành thói quen. Mỗi lần đi qua dưới đèn đường, anh có thói quen nhìn và đọc các con số trên cột đèn, nếu không anh sẽ không di chuyển.

2. Yêu thích chạy đường dài.

Turing có nhiều danh hiệu, nhà toán học huyền thoại, nhà logic học và cha đẻ của khoa học máy tính. Nhưng ít người biết rằng ông cũng là một vận động viên xuất sắc, thậm chí ông đã đứng trên sân khấu của thế vận hội.

Turing đã thể hiện tinh thần thể thao tuyệt vời và thể lực dồi dào từ thời trung học. Vào năm 14 tuổi, ngày đầu tiên ở trường trung học nội trú ở Shepburn, tất cả các phương tiện giao thông công cộng đã ngừng hoạt động do một cuộc đình công. Turing đã không thể đợi cho đến khi giao thông được phục hồi, ông đã đạp xe 96 km từ Southampton đến trường Dorset ở phía tây bắc để đi học. Điều này đã gây chấn động toàn trường.

Sau khi tốt nghiệp Cambridge, cho dù công việc bận rộn, ông vẫn sẽ duy trì thói quen này. Người bạn đồng hành của ông là J.F. Harding đã từng hỏi Turing duy trì thói quen này vì điều gì. Turning đã trả lời: “Không vì ai cả. Công việc của tôi chịu áp lực rất lớn, cách duy nhất để tôi thư giãn là giữ thói quen chạy bộ, chạy một cách tuyệt vọng, như vậy mới có thể cảm thấy tự do”.

3. Giải mã “Enigma” của Đức Quốc Xã.

Trong Thế chiến thứ hai, người Đức đã thiết kế một cỗ máy mật mã với hiệu suất tuyệt vời, được gọi là “Enigma”. Các mệnh lệnh quân sự do Đức Quốc Xã ra lệnh cho quân đội đều được mã hóa bằng “Enigma” và sau đó được ban hành. Vào thời điểm đó, quân đội Anh nhận ra rằng để đánh bại quân đội Đức, cần phải giải mã “Enigma” và nắm được tình hình quân sự của quân đội Đức.

Quân đội Anh đã nhanh chóng dùng một mảnh đất trống (nơi được đặt tên là Blakely Park và sau đó trở thành trung tâm giải mật mã của Anh) cách London chưa đầy 100 km về phía bắc. Sau đó đã tập hợp một số lượng lớn các nhà toán học, các nhà ngôn ngữ học và các bậc thầy cờ vua xuất sắc ở đó. Bao gồm Turing và Mickey, người sau này đã thành lập hệ thống trí tuệ nhân tạo đầu tiên trên thế giới tại Đại học Edinburgh. Họ chịu trách nhiệm ngăn chặn và giải mã mật khẩu “Enigma”.

Turning nhận thấy rằng quá trình điện báo là đục một đoạn băng giấy. Sử dụng lý thuyết tính toán của Turing, Vương quốc Anh đã thiết kế một máy giải mã “Ultra” để chống lại “Enigma” và giải mã đưỡ một số lượng lớn các mật mã quân sự của quân đội Đức. Nhờ đó, họ đã có những đóng góp xuất sắc vào việc đánh bại quân đội Đức và quân đội Mỹ.

(Ông đã sáng chế ra nhiều kỹ thuật phá mật mã của Đức, trong đó có phương pháp nối các máy giải mã lại với nhau thành một bộ bombe, một máy điện-cơ để tìm ra công thức cài đặt cho máy Enigma. Sau chiến tranh, ông công tác tại Phòng thí nghiệm Vật lý quốc gia (National Physical Laboratory), và đã tạo ra một trong những đồ án thiết kế đầu tiên của máy tính có khả năng lưu trữ chương trình (stored-program computer), nhưng nó không bao giờ được kiến tạo thành máy. Năm 1947 ông chuyển đến Đại học Victoria tại Manchester để làm việc, đa số trên phần mềm cho máy Manchester Mark I, lúc đó là một trong những máy tính hiện đại đầu tiên – Wikipedia)

4. Cái chết bí ẩn

Alan Turning là đồng tính luyến. Vì luật pháp ở Vương quốc Anh ủng hộ hình phạt nghiêm khắc đối với đồng tính luyến, cho nên thẩm phán đã cho Turning 2 sự lựa chọn là ở tù hai năm hay tiêm hormone estrogen (Thiến hoá học). Turing đã chọn tiêm hormone. Tuy nhiên, thay vì thay đổi tính hướng của ông, liệu pháp hoóc môn cho thấy nhiều tác dụng phụ khác nhau. Cuối cùng, Turing mắc bệnh trầm cảm và rất ít nói chuyện.

Vào ngày 8 tháng 6 năm 1954, tin tức về cái chết của Turing giống như một tiếng sét giữa ban ngày, làm chấn động không chỉ riêng Vương quốc Anh mà cả thế giới. Người đầu tiên phát hiện ra cái chết của Turing là người giúp việc dọn dẹp phòng. Turing vẫn nằm ngủ trên giường, tĩnh lặng, bên cạnh là một quả táo cắn dở. Đèn trên bàn bật sáng và có một bức thư đã để sẵn ở đấy.

Bác sĩ đã phát hiện ra kali xyanua trong quả táo mà Turing ăn dở. Sau khi thu thập bằng chứng từ nhiều nguồn khác nhau, cảnh sát điều tra và phán đoán, sau đó chính thức tuyên bố: Turing đã tự sát bằng cách uống thuốc độc.

Nguyên nhân cái chết của Turing trở thành một bí ẩn khó đoán trên toàn thế giới. Sự thật về cái chết của Turing vẫn còn là một ẩn số. Cuộc sống của một thiên tài luôn đầy rẫy những sự đấu tranh giữa đúng và sai. Điều chắc chắn duy nhất là sự đóng góp to lớn của ông cho sự phát triển khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo của nhân loại.

Ngày nay, khái niệm đồng tính luyến ở xã hội Anh đã thay đổi đáng kể và danh tiếng của Turing đã được công nhận. Năm nay, ngân hàng Anh đã công bố thiết kế tờ tiền giấy mới trị giá 50 bảng, Turing đã được nhiều người bình chọn và trở thành biểu tượng người nổi tiếng được in trên tờ tiền mới.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *