TRƯNG TRẮC: NỮ VƯƠNG ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM!

TRƯNG TRẮC: NỮ VƯƠNG ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM!

Chị em sinh đôi thì thường đi với nhau như hình với bóng. Trưng Trắc và Trưng Nhị cũng không phải là một ngoại lệ. Sử sách nước nhà vẫn hay gọi chung hai bà là Hai Bà Trưng mà không có sự bóc tách quá rõ ràng. Thành ra 2 bà, mỗi người giữ cho mình chút tủi thân bởi ai cũng muốn được là chính mình chứ không phải tuy hai mà một. Chuyện Hậu Cung xin phép được giới thiệu về bà Trưng Trắc trước. Còn Trưng Nhị thì hẹn bà ở một bài viết khác không xa.

Nếu chọn ra top những người phụ nữ quyền lực nhất thì ắt không thể thiếu Trưng Trắc. Bà trở thành nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử của người Việt với nhiều chiến công hiển hách vào buổi đầu dựng nước. Sự xuất hiện của bà ở đầu công nguyên cho thấy một đất nước trọng nam trọng nữ, bình đẳng giới. Đây quả thật là một điều đáng tự hào vì người Việt từ xưa đã thật văn minh, công bằng. Tiếc rằng sự du nhập của Nho giáo cùng với sự đồng hóa văn hóa Trung Hoa đã làm vấy bẩn suy nghĩ của người Việt cho đến ngày nay.

Trưng Trắc sinh vào mùa thu năm 14 SCN là con gái Lạc  tướng ở Mê Linh. Mẹ bà tên là Man Thiện được thần phả ghi là Trần Thị Đoan. Tuy nhiên thuở sơ khai người Việt chưa có họ nên những tên này chỉ mang tính tham khảo, không chắc chắn chính xác. Tên của bà theo các sử gia có nguồn gốc từ nghề dệt lụa truyền thống của Việt Nam nên rất giản dị là Trứng Chắc. Nhưng sử sách Trung Quốc ghi lại theo phiên âm người Việt cổ nên mới thành Trưng Trắc. Thậm chí Trung Quốc còn thâm hơn khi cố ý viết chệch tên bà với nghĩa phản trắc.

Bà sinh ra trong thời buổi loạn lạc khi nhà Hán đã hoàn thành chế độ cai trị. Vậy nên dù xuất thân tôn quý bà vẫn phải sống trong hà khắc và cực khổ. Khi vừa mới lớn lên, vì mục đích chính trị nên cha bà đã gả bà cho Thi Sách (con trai của Lạc Tướng ở Chu Diên ). Mối nhân duyên này đã gắn kết hai gia đình lại, cùng chí hướng chống Hán. Lại nói về mối tình giữa bà và Thi Sách, nhiều nguồn tin ngoài luồng đều cho rằng giữa hai người ban đầu không có tình cảm nam nữ. Nhưng sau một thời gian chung sống bên nhau, tính tình hòa hợp. Bà và Thi Sách đã thực sự trở thành vợ chồng đúng nghĩa.

Ở bên nhau chưa lâu, họ đã phải đối diện với cuộc chia ly mãi mãi vì tư tưởng chống Hán đầy công khai và phản động của mình. Thi Sách đã bị Thái thú Tô Định dùng kế hãm hại,giết chết không tha. Trưng Trắc thực sự ngã gục khi phải hứng chịu nỗi đau mất chồng. Nhưng chảy trong người bà là một dòng máu mãnh mẽ. Bà đã nuốt hận vào tim, quyết trả lại mối thù cả gốc lẫn lãi. Bà cũng thể hiện ý chí quyết tâm đầy máu lửa, đầy sự căm thù qua bốn câu thơ:

 Một xin rửa sạch nước thù 

 Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng

 Ba kẻo oan ức lòng chồng 

 Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.

Sau một thời gian chuẩn bị, bà cùng em gái ruột chính thức phát động khởi nghĩa ở vùng Hát Môn. Nhờ tận dụng tốt sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều đội quân và nhân dân khắp nơi, bà đã lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Sau khi đánh đuổi được Tô Định, bà tự lập làm vương xưng là Trưng Nữ Vương, ghi tên nước Việt lên bản đồ.

Ở trên đỉnh cao quyền lực, bà không thể nào nguôi nhớ về chồng. Nỗi đau đớn này sẽ dày xéo bà cả cuộc đời. Sự cô đơn sẽ đeo bám bà không bao giờ buông bỏ. Tuy nhiên bà không để bản thân mình chìm đắm trong những mất mát đó vì trước mắt bà là con dân nước Việt, là sự nghiệp dựng xây bảo vệ đất nước và là một cuộc chiến đánh dấu sự xâm lược trở lại của nhà Hán. 

Năm 41, nhà Hán chính thức cử Mã Viện đàn áp chính quyền của bà. Sự chênh lệch về lực lượng ít nhiều làm cho cuộc chiến này thêm phần khốc liệt. Lại cộng thêm quân ta bây giờ ô hợp, rất nhiều thủ lĩnh không phục bà làm vua lớp tan rã, lớp tự ly khai. Thế giặc mạnh như vũ bão, bà biết mình khó lòng chống lại, tình thế không thể cứu vãn đành ngậm ngùi nhảy sông tự vẫn bỏ lại một sự nghiệp còn dang dở.

Hình ảnh của bà luôn in đậm sắc thái bình quyền trai gái trong nền văn hóa dân tộc dân gian Việt Nam. Nhiều học giả cho rằng đây là điểm vượt trội không còn phải bàn cãi gì nữa của Việt Nam so với thế giới và phương Tây. Bà để lại cho cuộc đời một số phận đầy đau đớn, mất mát, đẫm nước mắt và tủi nhục. Nhưng đồng thời cũng là một người đấu tranh hết mình cho số phận, cho độc lập dân tộc. Chỉ tiếc rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế khiến bà vẫn còn những điều nuối tiếc, tự hổ thẹn với nước Việt. Nhưng quả thực trời đất sinh ra bà đã làm phấn khởi lòng người rồi!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *