CUNG TỪ CAO HOÀNG HẬU: BẬC MẪU NGHI XẢ THÂN VÌ GIANG SƠN ĐẠI VIỆT

CUNG TỪ CAO HOÀNG HẬU: BẬC MẪU NGHI XẢ THÂN VÌ GIANG SƠN ĐẠI VIỆT

Tại vị: truy phong

Phối ngấu: Thái Tổ hoàng đế Lê Lợi

Phạm Thị Ngọc Trần (? – 24 tháng 3, 1425), còn gọi là là Cung Từ hoàng thái hậu  hay Phạm Hiền phi, là vợ Lê Lợi – thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau trở thành vua Lê Thái Tổ.

Bà là người vùng Quần Lai, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Cha bà là ông Phạm Hoành và anh trai là Phạm Vấn sau này đều tham gia cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng. Vùng đất Thanh Hóa cũng là quê tổ của Lê Lợi.

Chuyện kể rằng, ông Lê Hối – ông tổ bốn đời của Lê Lợi trong một hôm đến vùng núi Lam Sơn thấy cảnh đất lành chim đậu nên đã quyết định dời nhà về đây. Ông Lê Hối lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên, sinh ra ông Lê Đinh. Ông Lê Đinh và bà Nguyễn Thị Quách sinh ra hai người con là Lê Tòng và Lê Khoáng.

Lê Khoáng lấy bà Trịnh Thị Ngọc Thương sinh được ba người con là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Lợi sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 đời nhà Trần.

Có lẽ mối quan hệ thông gia nội ngoại từ lâu đời (kể từ cụ tổ Lê Hối) giữa hai vùng đất Lam Sơn – Quần Đội đã là điều kiện tạo nên mối lương duyên giữa chàng trai trẻ Lê Lợi với nàng Ngọc Trần.

Lại nói về chuyện nhà Trần đến những năm cuối thế kỷ XIV đã trở nên suy yếu. Vào tháng 2 năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. Đến năm 1407, nhà Minh nhân cơ hội Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần liền đưa quân vào xâm lược nước ta.

Do không được lòng dân nên Hồ Quý Ly liên tục thất bại. Đến tháng 6 năm 1407, Hồ Quý Ly bị bắt cùng các con trai là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Nhà Minh đô hộ nước ta.

Trong bối cảnh đó, vào mùa xuân năm 1418, Lê Lợi đã cùng những nhân tài, hào kiệt trong cả nước quyết tâm dựng cờ khởi nghĩa, chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Minh cứu nước.

Là vợ của Bình Định Vương Lê Lợi, ngay từ những ngày đầu chồng phất cờ khởi nghĩa, hoàng hậu Ngọc Trần đã sớm trực tiếp đảm nhận trách nhiệm về việc quân lương. Bà cũng đồng thời chỉ đạo đội nữ binh tại trại Như Áng, Lam Sơn, căn cứ buổi đầu của cuộc khởi nghĩa.

Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa, từ năm 1418 đến năm 1424, hoạt động của nghĩa quân ở miền núi rừng Thanh Hóa diễn ra vô cùng khó khăn và gian khổ. Có nhiều lúc, cuộc khởi nghĩa có nguy cơ tan vỡ.

Tuy nhiên, do sự tổ chức tài tình của Lê Lợi và sự ủng hộ của binh sĩ cũng như người dân nên bản thân Lê Lợi cũng như cuộc khởi nghĩa dần vượt qua được khó khăn. Chính bởi vậy, ba lần nghĩa quân bị giặc vây khốn ở căn cứ Chí Linh, không cơm ăn áo mặc nhưng vẫn không nao núng tinh thần chiến đấu.

Chính trong những ngày gian khổ nói trên, hoàng hậu Ngọc Trần đã thể hiện rất rõ vai trò cũng như sự tận tụy của mình đối với cuộc khởi nghĩa. Không chỉ luôn sát cánh cùng với các binh sĩ, bà còn tìm mọi cách để có thể cung cấp lương thực, quần áo cho nghĩa quân.

Để có lương thực cung cấp cho nghĩa quân, bà tích cực động viên mọi người tăng gia sản xuất ở vùng Lam Sơn và vùng quê ngoại Quần Đội. Bà còn kết hợp cùng Nguyễn Nhữ Lãm vận động phường đánh cá Đa Mỹ dùng thuyền theo sông Chu ngược dòng tiếp lương cho nghĩa quân.

Lo lắng xong việc tiếp lương, bà Ngọc Trần còn lặn lội theo Bình Định Vương Lê Lợi và nghĩa quân đánh trận trực tiếp. Vai trò của bà Ngọc Trần đã góp phần đáng kể vào thắng lợi của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn trong giai đoạn hoạt động ở vùng núi rừng Thanh Hóa.

Trải qua 15 trận chiến đấu trong 5 chiến dịch mùa khô từ 1418 đến 1423, nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi đã đứng vững, thanh thế của nghĩa quân cũng dần lớn mạnh.

Tuy vậy, thế đứng quân tại căn cứ Chí Linh là hết sức khó khăn, nhất là về quân lương, nên Lê Lợi đã quyết định tạm hòa hoãn với quân thù để củng cố lực lượng.

Ngày 19 tháng 5 năm 1423, sau khi hòa hoãn và dùng kế giả hàng, Bình Định Vương lãnh đạo nghĩa quân rút về căn cứ Lam Sơn.

Tại đây, Bình Định Vương lãnh đạo nghĩa quân ra sức tăng gia, sản xuất, bồi dưỡng quân, tích trữ lương thực, thu hút lực lượng khắp cả nước đến Lam Sơn tụ nghĩa. Lúc này, bà Ngọc Trần đang có mang nhưng vẫn không rời việc chăm lo sản xuất lương thực, thực phẩm tại trang trại.

Đến ngày 20 tháng 11 năm 1423, bà Ngọc Trần sinh một người con trai, đặt tên là Nguyên Long. Hơn một năm sau, giặc Minh phát hiện ra kế giả hàng nên tập trung lực lượng chuẩn bị tấn công Lam Sơn.

Lê Lợi đã cấp tốc họp bộ tham mưu bàn cách đánh giặc. Ngày 12 tháng 10 năm 1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân chủ động tiến vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa mới.

Bà Ngọc Trần tiếp tục theo Lê Lợi cùng nghĩa quân lên đường đánh giặc. Năm 1425, Lê Lợi vây thành Nghệ An, tiến đánh thành Trào Khẩu ở Hưng Nguyên. Chính tại nơi đây, hoàng hậu Ngọc Trần đã quyết hi sinh thân mình để tế thần.

Trong cuốn “Lam Sơn thực lục” của Hồ Sĩ Dương có chép về sự việc này như sau. Vào tháng 3 năm 1425, Lê Lợi tiến quân vây thành Nghệ An, giặc Minh ra sức chống giữ, thế lực chưa phân thắng bại.

Quân doanh của Lê Lợi tạm đóng cạnh đền thờ thần Phổ Hộ bên bờ sông Lam thuộc làng Trào Khẩu, huyện Hưng Nguyên. Đêm hôm đó, Lê Lợi chiêm bao thấy một vị thần báo mộng cho mình rằng: “Tướng quân nhường cho tôi một người thiếp, tôi hứa hết sức phù hộ tướng quân đánh thắng giặc, giữ vững nghiệp đế”…

Tỉnh dậy, Vua nghĩ rằng: Thuở xưa, vua Lý nhờ vợ chồng ông hàng dầu là Vũ Phục, nhảy xuống sông Thiên Phù, hiến xác cho thủy thần mà vua Lý khỏi bệnh đau mắt, lo được việc chống giặc.

Rồi Lý Thường Kiệt dàn trận đánh Tống, nói rằng có thần ngâm thơ giúp đuổi giặc, mà quả nhiên hôm sau quân ta phá được giặc Tống bên sông Như Nguyệt. Vậy thì ngày nay, ta thí mạng một người mà cứu sống muôn người, thu lại được non sông, thì việc đáng làm lắm rồi.

Sáng sớm hôm sau, Lê Lợi cho gọi những người vợ của mình đến hỏi rằng: “Có ai chịu đi làm vợ thủy thần không? Sau này khi ta lấy được nước, sẽ lập con của người đó làm thiên tử”.

Các bà phi đều im lặng, không nói gì. Chỉ có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu vì nghiệp lớn của Minh Công thì thiếp tự nguyện xả thân; ngày sau mong Minh Công giữ lời hứa, chớ phụ con thiếp”.

Nhà vua khen ngợi và thương cảm hứa trước các bà và bề tôi, ngày sau xin làm đúng hẹn. Rồi vua sai bề tôi cùng đến đền làm lễ tế thần. Đó là vào ngày 24 tháng 3 năm 1425. Lúc này bà Ngọc Trần đang bế đứa con là Nguyên Long vừa mới lên 3 tuổi, gạt nước mắt trao cho người hầu bế ẵm. Rồi bà đứng lên làm vật tế thần.

Sau khi bà Ngọc Trần hiến thân thế thần, Lê Lợi và nghĩa quân liên tiếp dành thắng lợi. Không lâu sau đó, cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi hoàn toàn, đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài “Bình Ngô đại cáo” để bố cáo cho thiên hạ biết về việc đánh quân Minh. Đây là áng văn chương nổi tiếng, rất có giá trị đời Lê, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ “Nam quốc sơn hà”.

Khi Cao Hoàng (tức Lê Lợi) bình định được quân Minh, ông nói với quần thần: “Bà ấy đáng làm chúa cả trăm vị thần của nước ta, không ai dám trái”. Bèn sau đó sai người ở động Nhân Trầm là Lê Cối rước quan tài về táng ở Thanh Hóa. Đi đến xã Thịnh Mỹ thì trời tối, chưa kịp qua sông bèn ngủ trọ ở chợ. Đến đêm mối đùn lên quanh quan tài một đống rất cao, biến thành nấm mồ. Sứ giả thấy lạ, trở về tâu Cao Hoàng, ông bèn nói: “Đó là vị thần đã làm theo lời hẹn”, nói rồi sai bảo cứ để quan tài ở đó, xây dựng điện Hiến Nhân để thờ, đồng thời lập miếu, đặt thần chủ ở Lam Kinh để cúng tế.

Bấy giờ, Cao Hoàng lại lập con trưởng là Quận vương Lê Tư Tề làm giám quốc, lo triều chính mà quên mất Lê Nguyên Long. Một hôm giữa trưa, Cao Hoàng nằm ngủ chợt mộng thấy Hoàng hậu oán trách rằng: “Đức hoàng phụ công của thiếp; từ hồi mới khởi binh dẹp loạn, đã đem thiếp cho vị thần. Nay được thiên hạ rồi mà ơn thánh chẳng được hưởng”, rồi tan biến.

Cao Hoàng hoảng hồn tỉnh dậy, lòng bồi hồi xúc cảm, bèn lập Nguyên Long làm con đích trưởng, cho nối ngôi. Bấy giờ, Quận vương tuy làm giám quốc nhưng bị người chống đối hãm hại, nói rằng quận vương mắc bệnh điên, lại dựng nhiều chuyện làm trái ý hoàng đế. Cao Hoàng buồn bực không thôi, nên có ý phế truất mà còn do dự, nay Hoàng hậu về báo mộng, nên mới có lệnh ấy.

Năm 1433, Cao Hoàng băng hà, Lê Nguyên Long lên ngôi, tức Thái Tông hoàng đế. Lòng bồi hồi nhớ về người mẹ quá cố, nên Thái Tông truy phong làm Cung Từ Quốc thái mẫu. Sai viên Tri tả hữu ban Lê Vận, anh trai của Quốc thái mẫu được ban quốc tín, và trung thư thị lang Trần Thuấn Du đem thần chủ mới vào thờ phụng ở Thái miếu, mang sách vàng dâng thụy hiệu.

Ngày 8 tháng 7 năm đó, sai hữu bộc xạ Nguyễn Nhữ Lãm đến Lam kinh làm miếu cho Quốc thái mẫu. Tháng 12, sai Nhập nội thiếu bảo Lê Quốc Hưng, Nhập nội hữu bật Lê Văn Linh rước thần chủ của Thái mẫu vào thờ phụng ở Thái miếu.

Tháng 2, năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), Thái Tông Văn Hoàng truy tôn mẹ mình làm Cung Từ Quang Mục Hoàng thái hậu, thờ phụng ở Thái Miếu. Về sau người ta đều gọi bà là Cung Từ Cao hoàng hậu.

Hẳn ở nơi suối vàng, Thái hậu cùng vua Lê Thái Tổ cũng đẹp lòng bởi vua Lê Thái Tông – con trai yêu quý của bà lên ngôi đã nối vận thái bình, bên trong chỉ huy được quần thần, bên ngoài dẹp yên giặc quấy nhiễu, trọng Đạo, sùng Nho, mở khoa thi tuyển nhân tài, xét tù xử ngục phần nhiều khoan dung, xá tội… Chính sử đã ghi nhận là bậc vua giỏi. Dân gian ca ngợi vua Thái Tông tiếp nối Thái Tổ thiên hạ đất nước thịnh đạt, thái bình sung túc.

(Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa cho bài viết)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *