THIÊN THỤY CÔNG CHÚA – KIẾP HỒNG NHAN LỠ LÀNG

Nhà Trần – một trong những triều đại hưng thịnh, kiêu hùng nhất lịch sử nước ta, suốt gần 200 năm tồn tại đã chứng kiến biết bao biến động, rối ren trong hoàng tộc, sự đan xen, chồng chéo giữa quyền lực, trách nhiệm, tình yêu. Trong ấy không thể không kể đến mối quan hệ giữa Thiên Thụy công chúa và Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư.

Những ghi chép, tư liệu về Thiên Thụy công chúa chính sử để lại không nhiều. Chỉ biết bà là một hoàng nữ, con gái vua Trần Thánh Tông và là chị gái vua Trần Nhân Tông. Theo một số huyền tích, bà có tên là Trần Quỳnh Trân, thân mẫu là cung phi Vũ Thị Ngọc Lan. Như vậy, thông tin về vị công chúa này là tương đối ít ỏi, chủ yếu là về mối quan hệ tình cảm với võ tướng Trần Khánh Dư. 

Về gia thế của Trần Khánh Dư, tác giả Trần Nhuận Minh trong bài “Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư và Bình Hải quân thời Trần” đã viết: “Ông là con Thượng tướng Trần Phó Duyệt, cháu nội của Trần Thủ Độ”, nổi tiếng với tài mưu lược, dùng binh, uyên thâm văn sử. Tài không đợi tuổi, ngay từ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, chàng thanh niên Khánh Dư lúc ấy mới mười sáu tuổi, đã dũng cảm đứng lên tập hợp gia binh, bất ngờ tập kích vào trại giặc. Đốt phá lương thảo, xông vào trại ngựa khiến ngựa tháo chạy toán loạn, bắt sống được cả ngàn con. Lớn hơn chút nữa được giao cho dẹp loạn quân Man ở thượng du sông Đà, Khánh Dư đã cưỡi thuyền độc mộc đánh thẳng vào động Man Chúa, khiến giặc phải hàng. 

Không những anh dũng, thiện chiến trên sa trường, tài văn chương của vị võ tướng này cũng khiến người ta không khỏi trầm trồ, từng được Hưng Đạo vương đích thân ngợi khen: “phải nói thật là không tướng nào hiểu sâu sắc như hắn” khi viết lời tựa cho cuốn “Vạn kiếp tông bí truyền thư”. Nhân tài như vậy, quả thực hiếm có. Trần Khánh Dư được vua yêu mến, trọng dụng, nhận làm Thiên tử nghĩa nam, lại đặc biệt phong tới chức Phiêu Kỵ đại tướng quân. Về việc này, Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Sau khi đánh người Man ở núi, đại thắng, Trần Khánh Dư lại được phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ nếu không phải là hoàng tử thì không được phong, vì ông là con nuôi của vua nên mới được. Ông được vua yêu, từ tước hầu mấy lần được phong lên Thượng vị hầu áo tía, rồi cất lên làm phán thủ”.

Từ thuở thiếu thời, Khánh Dư đã được nuôi dạy trong cung, bởi thế mà quen biết nàng Thiên Thụy. Cứ như vậy, đôi thanh mai trúc mã nảy sinh hảo cảm lúc nào chẳng hay. Tướng tài kiêu dũng, hoàng nữ cao sang, sánh đôi đúng thực tạo nên một giai thoại đẹp. Tiếc rằng, mối tình đẹp nhường ấy lại chẳng thể đi tới một kết cục viên mãn. Khi công chúa đến tuổi cưới gả, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã xin hỏi cưới công chúa Thiên Thụy cho con trai là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn. 

Vua Thánh Tông tác thành, một đạo thánh chỉ ban xuống, nàng từ nay đã thành người của Hưng Vũ vương. Chuyện tưởng rằng sẽ vì vậy  mà kết thúc. Nào ngờ, lửa tình khó dứt, mộng cũ còn vương. Trong một lần Trần Khánh Dư về thành Thăng Long dự yến tiệc, cùng công chúa Thiên Thụy trùng phùng, thắm thiết mặn nồng mà nối lại tình xưa. Giấy chẳng bọc được lửa, sự việc bị phát giác đã gây chấn động nội cung nhà Trần, đẩy Trần Thánh Tông vào thế tiến thoái lưỡng nan: một bên là phủ Hưng Đạo vương uy thế, công lao vô kể, một bên là vị tướng trẻ, nhân tài cầm quân của nước nhà. 

Tuy nói, hôn nhân cận huyết trong hoàng tộc nhà Trần diễn ra phổ biến, nhưng việc tư thông này thực tình khó mà nhắm mắt bỏ qua. Dù Khánh Dư là người trong tông thất, lại là Thiên tử nghĩa nam cũng không ngoại lệ. Vua không thể không xử bởi lẽ, xét vai vế trong tộc, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là bậc trưởng bối có đức độ cùng tài năng hội đủ, uy tín vô cùng cao. Hơn nữa, Trần Quốc Nghiễn con trai ông cũng là bậc dũng tướng có công. Vụ việc vì thế mà càng trở nên nghiêm trọng, không cách nào xử qua loa lấy lệ.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua sợ phật ý Quốc Tuấn, mới sai người đánh chết Khánh Dư ở Hồ Tây, nhưng lai dặn chớ đánh đau quá, để không đến nỗi chết. Ít lâu sau xuống chiếu đoạt hết quan tước, quân tịch thu tài sản không để lại cho một chút gì. Châu Chí Linh vốn là của riêng của Thượng tướng Trần Phó Duyệt, nên Khánh Dư mới giữ lại được. Khánh Dư lui về ở Chí Linh, cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than.” Trong tình thế khó xử ấy, vua Thánh Tông vẫn có thể hóa giải một vụ án tày trời theo cách thật nhẹ nhàng, khéo léo, vẹn cả đôi đường. Cách làm ấy của vua rõ ràng đã dẹp yên dị nghị, bình ổn nhân tâm trong triều đình cũng như trong hoàng tộc, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang bị nhòm ngó. Sau sự việc ấy, Thiên Thụy Công chúa trở về sống trong hành cung riêng, cắt áo đoạn tuyệt quan hệ với cả Quốc Nghiễn. 

Trời dụng người tài, năm 1282, trước kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai, Trần Khánh Dư được vua Trần Nhân Tông phục chức (Trần Thánh Tông lúc này đã là Thái Thượng hoàng), theo xa giá của vua về cung. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, Dư vẫn “không sửa hết lỗi lầm”, ở đây ý chỉ việc ông “tình cũ không rủ cũng tới”, còn giữ quan hệ qua lại với nàng Thiên Thụy. Từ đây, không có ghi chép về hành trạng của công chúa mãi cho đến khi qua đời vào năm 1308.

Theo dã sử, khoảng đầu năm 1284, Trần Nhân Tông buộc lòng phải cho Thiên Thụy Công chúa xuất gia, tu hành tại một am nhỏ ở khu vực ven sông Văn Úc (ven biển Đồ Sơn ngày nay). Tại đây, bà lập điền trang trồng cây lương thực, mở chợ, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương. Trong thời gian ấy, bà còn thường xuyên phát chẩn cứu nghèo, khuyến khích dân khai hoang, phát triển nông trang. Những năm thiên tai mất mùa lại xin nhà vua miễn thuế cho năm xã trong vùng. Trong thời gian tu hành, công chúa còn trồng một cây gạo với ước nguyện nhân dân no đủ, thóc gạo dồi dào. Ngày sau, am nhỏ dần phát triển thành ngôi chùa, còn bà cũng thanh ni sư được dân yêu kính, pháp danh Thiền Đức đại ni. 

Nội tộc Trần triều cũng từng rúng động bởi vụ cướp dâu bất ngờ của Trần Quốc Tuấn, ngay trước lễ kết tóc của Thiên Thành Công chúa. Không khó để nhận ra nhiều điểm tương đồng giữa hai sự việc này, thế nhưng Hưng Đạo vương thành công lật ngược thế cờ, giành lại được người con gái mình thương thì kết cục với Trần Khánh Dư và Thiên Thụy lại chẳng mấy tốt đẹp. 

Thiên Thụy Công chúa, nàng quả thực đáng thương vô cùng, cũng đáng trách vô cùng. Nỗi đau chia loan rẽ thúy, chẳng thể nên mộng đẹp với người trong lòng, thập phần đau đớn xót xa, đặc biệt là với người con gái đang thì xuân xanh tươi đẹp như công chúa lúc bấy giờ. Ấy thế nhưng, việc qua lại bất chính sau khi đã thành gia lập thất, thực khó mà dung thứ, nhất là trong xã hội phong kiến nặng Nữ tắc.. Để lỡ mất mối nhân duyên nàng khắc cốt ghi tâm, là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời vị công chúa nhà Trần này. Nhưng có thể làm gì khác hơn  được đây, khi thời đại nàng sinh ra, hoàng nữ cao quý cũng được, cung nhân thấp hèn cũng đành, nào mấy ai có thể nắm vận mệnh của mình trong tay? Chỉ biết than một tiếng ai oán sao thói đời bạc bẽo, nuối tiếc cho một kiếp hồng nhan lỡ làng. 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *