Nhật Bản có tình yêu mãnh liệt với mèo. Điều này thể hiện rõ nét trong văn hóa đại chúng Nhật Bản: Hello Kitty. Những quán cà phê mèo. Tai mèo điện tử có thể đeo phản hồi trạng thái cảm xúc của bạn. Hàng loạt truyện tranh về mèo. Điểm đến du lịch nổi tiếng Gotokuji, một ngôi chùa ở phường Setagaya của Tokyo, nơi tự xưng là quê hương ban đầu của mèo gọi khách – Maneki Neko. Ngôi chùa mèo nổi tiếng Nyan Nyan Ji ở Kyoto nơi có một nhà sư mèo thực sự.
Không rõ mèo tồn tại ở Nhật Bản từ bao giờ, có lẽ là theo con đường tơ lụa từ Ai Cập đến Trung Quốc và Hàn Quốc, và sau đó vượt biển đến Nhật. Lý do mèo được mang vào Nhật có thể là để ngăn chuột đến gần những bộ kinh Phật quý giá được viết trên giấy da thuộc, hoặc như những món quà đắt tiền được trao đổi giữa các hoàng đế. Nhiều khả năng cả hai điều này đã xảy ra vào những thời điểm khác nhau.
Ghi chép sớm nhất về mèo được cho là cuốn nhật ký của Thiên hoàng Uda viết vào 11/3/889 khi ngài 17 tuổi
Lược dịch:
“Ngày 6 tháng 2, Kampo nguyên niên.
Nhân dịp rảnh rỗi, ta muốn bày tỏ niềm vui với mèo cưng. Đây là quà tặng từ hải ngoại dành cho tiên hoàng, do Minamoto no Kuwashi dâng tặng.
Nó có bộ lông mang màu sắc vô song, không có ngôn từ nào lột tả được, mặc dù một người nói rằng nó giống như màu mực đậm đặc nhất. Ta đeo cho nó một chiếc nơ nhưng rồi cũng không được lâu.
Khi giận dỗi, nó nheo mắt và giơ móng lên, quay lưng lại phía ta.
Khi nằm xuống, nó cuộn tròn như đồng xu. Ngươi không thể nhìn thấy chân của nó. Nó như thể là một đĩa tròn. Khi nó đứng lên, tiếng kêu của nó thể hiện sự cô đơn sâu sắc, giống như một con rồng đen lơ lửng trên mây.
Về tính tình, nó thích rình rập chim chóc. Nó cúi thấp đầu và phe phẩy đuôi. Nó có thể rướn lên rất cao. Màu lông đặc biệt làm nó như biến mất trong màn đêm. Ta tin rằng nó là con mèo vượt trội nhất trên tất thảy loài mèo.”
VẬY ĐẤY, DÙ LÀ THIÊN HOÀNG HAY THƯỜNG DÂN, TẤT CẢ ĐỀU THẦN PHỤC TRƯỚC LOÀI MÈO, CƯNG NỰNG MÈO CƯNG CỦA MÌNH VÀ COI CHÚNG LÀ CON MÈO TUYỆT VỜI NHẤT TRONG TẤT CẢ NHỮNG CON MÈO.
Mặc dù ban đầu mèo được buôn bán như những vật vô giá ở Nhật Bản, tuy nhiên không giống như vàng, đá quý hay lụa quý hiếm, những báu vật đầy lông này có khả năng làm được điều mà những vật có giá trị khác không thể – nhân lên. Mèo tạo ra nhiều mèo hơn. Qua nhiều thế kỷ, loài mèo được sinh sản và lan rộng cho đến thế kỷ 12, chúng phổ biến trên khắp hòn đảo Nhật Bản.
ĐÓ LÀ LÚC CHÚNG BẮT ĐẦU BIẾN HÌNH.
Từ lâu, dân gian Nhật Bản đã quan niệm rằng khi mọi sinh vật sống quá lâu, chúng sẽ biểu hiện ra sức mạnh kỳ diệu (thành tinh). Có rất nhiều câu chuyện cổ về cáo, chồn, sói thành tinh, thậm chí cả ghế thành tinh. Tuy nhiên, mèo dường như có phần độc đáo trong vô số sức mạnh mà chúng có thể sở hữu — và vô số hình dạng của chúng. Có lẽ điều này là do mèo vốn không phải là loài bản địa của Nhật Bản. Trong khi xã hội Nhật Bản phát triển cùng với cáo và chồn, mèo sở hữu khí chất đến từ thế giới bên ngoài, kết hợp điều đó với bản chất bí ẩn tự nhiên của mèo, khả năng co giãn uốn dẻo cơ thể thần kỳ, cách chúng có thể đi lại không hề gây ra tiếng động và đôi mắt phát sáng của chúng thay đổi hình dạng trong bóng đêm – công thức hoàn hảo cho một loài động vật kỳ diệu.
Khi Nhật Bản đô thị hóa, quần thể mèo và người cùng tăng dân số. Bấy giờ, mèo ở khắp mọi nơi; không chỉ là vật nuôi trong nhà để đuổi chuột, mà còn là đám mèo hoang sống bằng thức ăn thừa từ quầy sushi hay ramen. Cùng với đó là những câu chuyện về con mèo có thể biến thành hình dạng con người.
THEO TRUYỀN THUYẾT, NHỮNG CON MÈO SỐNG LÂU BẤT THƯỜNG SẼ HÓA THÀNH BAKENEKO, GIẾT CHỦ NHÂN CỦA CHÚNG VÀ THAY THẾ HỌ.
Tuy nhiên, không phải tất cả bakeneko đều giết người. Vào khoảng năm 1781, tin đồn bắt đầu lan truyền rằng một số kỹ nữ mua vui quanh ở thủ đô Edo hoàn toàn không phải là con người, mà là bakeneko biến thành. Sau đó ý tưởng này lan rộng ra khỏi khu phố lầu xanh, trở thành một thế giới mèo bí ẩn, bao gồm các diễn viên kabuki, nghệ sĩ, diễn viên hài và các á nhân khác. Loài mèo biến hình này rời nhà vào ban đêm, mặc kimono, mang theo rượu sake và shamisen, và tổ chức những bữa tiệc thác loạn trước khi trở về nhà vào lúc bình minh. Điều này được phản ánh qua rất nhiều tranh ukiyo-e thời đại này, với những minh họa về người có khuôn mặt mèo, hoặc những đám nửa người nửa mèo chơi xúc xắc và hút tẩu.
Một số sinh vật mèo, như neko musume, được cho là con lai giữa mèo và người. Chúng được cho là sinh ra từ lời nguyền của mèo đối với những thợ chế tác đàn shamisen do sử dụng da mèo để làm mặt đàn. Nếu người thợ đàn shamisen quá tham lam, ông ta có thể bị nguyền rủa bằng một đứa con neko musume – có hình dạng người nhưng không thể nói mà chỉ kêu như mèo, cào cấu và ăn thịt chuột.
Có lẽ loài mèo siêu nhiên tồn tại lâu nhất thời Edo là maneki neko, hay chú mèo may mắn. Mặc dù thực sự là được tạo ra với mục đích thương mại, chú mèo vẫy tay này có nguồn gốc từ dân gian. Ngôi chùa Gotokuji kể về một chú mèo tình cờ đã cứu một lãnh chúa samurai khỏi bị sét đánh trong một trận bão kinh hoàng. Vị lãnh chúa đứng ra bảo trợ cho ngôi chùa vẫn tồn tại cho đến ngày nay, bán ra hàng nghìn mẫu maneki neko cho du khách. Ngoài ra, có một nguồn khác kể về một bà lão nghèo mơ thấy một con mèo. Con mèo bảo bà làm một con mèo bằng đất sét để bán ở chợ. Người phụ nữ chào bán tượng mèo và kể câu chuyện của mình, bán ngày càng nhiều tượng mèo cho đến khi giàu có và hạnh phúc. Những bức tượng mèo tương tự này vẫn được bán trên toàn thế giới ngày nay với tên gọi Maneki Neko. Rõ ràng, cả hai câu chuyện đều không thể là sự thật, nhưng điều đó không ngăn cản doanh số bán hàng tăng vọt. Thật thú vị khi mọi câu chuyện dân gian đều có mục đích kiếm tiền. Ngay cả các họa sỹ ukiyo-e cũng phát hiện ra rằng tác phẩm bakeneko của họ bán chạy hơn.
Văn hóa dân gian Nhật Bản vẫn còn rất nhiều câu chuyện thú vị liên quan đến loài mèo. Hầu hết truyện thần thoại về mèo đều được sinh ra vào thời Edo, tuy nhiên tất nhiên vào thời hiện đại vẫn có những loài mèo siêu nhiên mới được hình thành. Nhật Bản yêu mèo, và hẳn là cũng rất sợ mèo tinh.
