Kính thưa các anh, các chị trong Toà soạn!
Năm nay tôi vừa tròn 68 tuổi. Tôi sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ ở ngoại thành. Cuộc đời tôi có lẽ chỉ có mươi ngày hạnh phúc. Còn tất cả những ngày tháng còn lại tôi sống trong cô đơn và dằn vặt. Tôi chưa một ngày được làm vợ nhưng đã có một ngày được làm mẹ. Nhưng ngày được làm mẹ của tôi lại là một ngày tủi nhục, đau đớn và tội lỗi. Đó là ngày tôi sinh ra đứa con trai duy nhất và cũng là ngày tôi đã đi bán đứa con của mình. Ngày ấy cách đây đúng 48 năm.
Hồi ấy, tôi đang là công nhân của một xí nghiệp gia công sản xuất nhựa. Trên một chuyến xe, tôi đã quen một người đàn ông. Sau này, tôi đã yêu và mang thai với người đàn ông đó. Khi có thai, tôi vừa hạnh phúc vừa lo sợ. Tôi đã nói về cái thai trong bụng tôi và mong được làm vợ anh. Người đàn ông đó đã nói với tôi là về quê báo cáo với gia đình việc tổ chức hôn lễ cho chúng tôi.
Ngày hôm sau, người đàn ông ấy lên đường về quê. Tôi hạnh phúc vô bờ. Tôi đưa hết số tiền dành dụm được trong mấy năm cho người đàn ông ấy để lo việc hôn lễ của chúng tôi.
Nhưng rồi từ ngày ấy, người đàn ông đó đã không trở lại. Lúc đầu, tôi lo sợ anh ấy bị ốm đau. Sau đấy tôi lại nghĩ hay anh ta đã gặp chuyện chẳng lành. Tôi tìm đến cơ quan của anh ấy. Đến nơi, tôi mới biết rằng không có người đàn ông nào có cái tên như anh ta đã nói với tôi.
Lúc này, tôi mới thực sự bối rối và hoảng sợ. Cơ quan đó đã bố trí cho tôi nhận dạng những người đàn ông trong cơ quan. Nhưng tôi đã không tìm được một người nào như thế.
Tôi hoang mang thật sự. Cái thai trong bụng tôi đã lớn. Tôi không dám làm gì với cái thai và càng không biết phải làm gì khi đứa bé ra đời. Suốt thời gian đó cho tới khi sinh nở, tôi sống trong sợ hãi và đau đớn.
Rồi cũng đến cái đêm tôi đau đẻ, tôi không dám đến bệnh viện. Tôi đã ra bờ sông thành phố và sinh con. Lúc đó, tôi vừa mong đứa bé ra đời “mẹ tròn con vuông” lại vừa mong đứa bé ấy chết đi. Chính vì ý nghĩ độc ác ấy của tôi mà tôi bị trời đầy phải sống đau khổ, cô độc suốt đời.
Đêm ấy, khi đứa bé vừa cất tiếng khóc chào đời thì có một người đàn bà xuất hiện. Vì đêm tối và vì người đàn bà ấy trùm khăn kín nên tôi không thể nhìn rõ mặt. Người đàn bà đã đón lấy đứa bé và cắt rốn, rồi quấn tã lót cho cháu. Lúc đó tôi quá sợ hãi và quá yếu nên tôi cứ để cho người đàn bà đó chăm sóc con tôi.
Sau khi quấn tã lót cho đứa bé xong, người đàn bà đó hỏi tôi: “Cô định vứt đứa bé đi à?”. Tôi không biết trả lời thế nào mà chỉ khóc. Người đàn bà đó lại hỏi: “Tôi biết cô không định nuôi đứa bé, cô hãy cho tôi, đừng bỏ nó ở đây mà phải tội”. Nghe vậy, tôi bò đến và ôm lấy chân người đàn bà đó, vừa khóc vừa nói: “Xin bà thương lấy đứa bé mà nuôi dạy nó lên người. Tôi có tội với trời đất, với con tôi. Nhưng tôi không thể nuôi nó được”. Người đàn bà không nói gì. Chị lấy một nắm cơm và thức ăn khô đưa cho tôi. Sau đó, chị lấy trong túi ra một gói giấy nhỏ đặt xuống trước tôi và bế đứa bé đi. Tôi nằm úp mặt xuống đất mà khóc rồi thiếp đi vì quá yếu và quá đau khổ. Khi tỉnh dậy, tôi ăn ngấu nghiến hết nắm cơm. Sau đó, tôi mở gói giấy ra và thấy trong đó là tiền. Lúc đó, tôi ngửa mặt lên trời mà kêu lên: “Con có tội, con đã bán giọt máu của con, xin trời phật trừng phạt con”.
Có lẽ do trời phật trừng phạt mà tôi phải sống trong những cơn ác mộng và cô độc. Tôi nghĩ đến tội bỏ con của tôi và tôi không bao giờ dám nghĩ đến hạnh phúc của riêng tôi. Suốt đời tôi nguyền rủa bản thân mình. Hầu như đêm nào tôi cũng nghĩ đến đứa bé và khóc thầm. Biết bao nhiêu lần tôi định đi tìm con nhưng tôi không biết tìm nó ở đâu. Tôi không biết ai đã đón con tôi đi trong cái đêm ấy.
Lúc đầu tôi nghĩ đó là một người qua đường. Nhưng những năm sau này khi tôi trấn tĩnh lại, tôi tự đặt câu hỏi vì sao người đàn bà che mặt trong đêm tối ấy lại mang cơm cho tôi và bọc sẵn ít tiền cho tôi. Tôi đã giấu những người cùng xí nghiệp cái mang của tôi. Phải chăng có ai đó đã biết tôi có mang và biết được ý định bỏ rơi đứa con của tôi mà chuẩn bị đón đứa bé. Nhưng tôi không đủ can đảm và không biết phải nói với những người ở quanh tôi như thế nào. Tôi cũng không nhận thấy bất cứ ai trong xí nghiệp có thái độ gì khác với tôi. Thời gian cứ thế âm thầm trôi đi cho tới khi tôi nghỉ hưu theo chế độ.
Sau khi nghỉ hưu, tôi càng ốm đau hơn. Tôi sống một mình trong ngôi nhà nhỏ như một bóng ma. Bây giờ có lẽ tôi đã hết nước mắt để khóc về đứa con bị bỏ rơi từ mấy chục năm trước. Tôi sống vô cùng vất vả vì những lúc đau ốm không có người thân.
Rồi một hôm, có một người phụ nữ trạc tuổi tôi cùng với một người đàn ông trẻ đến nhà tôi. Người phụ nữ ấy đến trước tôi hỏi tôi có nhận ra bà ấy là ai không? Tôi nhìn người phụ nữ một lúc và nhận ra đó là chị Cúc cùng xí nghiệp với tôi một thời gian. Ngay lúc đó, chị Cúc hỏi tôi có thấy người đàn ông trẻ có gì quen không? Ngay khi người đàn ông trẻ bước vào nhà, tôi đã giật mình vì thấy anh ta rất giống người đàn ông phụ bạc năm xưa. Sau câu hỏi của chị Cúc, tôi chợt hiểu tất cả và gục đầu xuống khóc. Tôi không thể ngờ nó lại giống người bố bội bạc của nó như thế.
Chị Cúc kể cho tôi nghe vì sao chị biết tôi có mang và vì sao chị biết tôi có ý định bỏ rơi đứa trẻ. Nghe xong, tôi khóc rất lâu và nói với con tôi: “Mong cậu hãy tha tội cho tôi”. Lòng tôi đau đớn không dám và không được quyền gọi người đàn ông trẻ đó là con.
Qua câu chuyện của chị Cúc, tôi biết được: Sau khi con tôi trưởng thành lấy vợ và sinh con thì chị Cúc mới quyết định nói với nó chuyện năm xưa và khuyên nó hãy đến nhận mẹ đẻ của mình.
Sau những ngày tháng bàng hoàng và đau khổ, con tôi đã nói với chị Cúc rằng nếu chị cứ tiếp tục khuyên nó đến gặp và nhận lại mẹ đẻ thì nó sẽ bỏ đi biệt tăm.
Nhưng chị Cúc đã kiên trì nói với nó về tình máu mủ, về sự tha thứ, về tình thương và ơn nghĩa đối với người mang nặng đẻ đau ra nó. Chị nói cho nó nghe về hoàn cảnh và tinh thần suy sụp của tôi lúc đó. Chị Cúc cứ kiên trì những điều như vậy suốt ba năm trời. Và rồi đến một ngày sự tha thứ và tình máu mủ đã thức dậy ở con tôi. Cháu đã khóc và nói: “Con ơn mẹ và con nghe lời mẹ”.
Bây giờ thì tôi thanh thản hơn vì biết rằng giọt máu của tôi đã nên người, đã được một người nhân hậu nuôi dạy. Nhưng tôi giày vò hơn mỗi khi nhìn thấy con tôi. Khi con tôi đưa vợ con nó đến thăm tôi, tôi thực sự thấy xấu hổ và chẳng biết nói một câu gì. Một lần, chị Cúc nói với tôi: “Tôi đang động viên cháu về sống với cô”. Nghe vậy, tôi đã chắp tay lạy chị Cúc, khóc và nói: “Tôi xin chị đừng bao giờ nói đến điều ấy. Nếu chị cứ nói như vậy tôi chết không nhắm mắt được. Tôi có tội quá lớn, chỉ có chị mới xứng đáng là mẹ cháu. Tôi chỉ dám xin một điều là khi tôi chết, chị cho phép con tôi chít khăn thờ tôi”.
Thưa các anh, các chị, có bà mẹ nào trên đời tội lỗi như tôi không? Có người phụ nữ nào trên đời nhân hậu như chị Cúc không? Tôi đã già và sức khoẻ rất yếu. Tôi xin những người mẹ trẻ đã trót dại lầm lỡ như tôi hãy đừng nông nổi hành động như tôi, để rồi cả đời sống trong sự dày vò và ân hận. Hãy đừng hành động như tôi.
Người viết thư
Đ.T.H ( ST)
Chia sẻ từ fb Dũng Tiến