Nhà Hậu Lê do Lê Lợi ( tức Lê Thái tổ sáng lập) cầm quyền được 361 năm (1428 – 1789) , với 28 đời vua, trong đó thời Lê Sơ kéo dài 100 năm , trải qua 11 đời vua thì mất ngôi vào tay Mạc Đăng Dung. Khi ấy cựu thần nhà Hâu Lê là Nguyễn Kim chiêu binh mãi mã chống lại nhà Mạc. Đó là bối cảnh xuất hiện Lê Trang Tông, người khởi đầu triều Hậu Lê thời Lê Trung Hưng kéo dài thêm 261 năm nữa ( 1533 – 1879) với 17 ông vua tiếp theo. Vậy ông ta là ai?
LÊ TRANG TÔNG LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN LÊN NGÔI VUA CỦA TRIỀU LÊ TRUNG HƯNG.
Lê Trang Tông (chữ Hán: 黎莊宗 1515 – 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là Trang Tông Dụ Hoàng đế (莊宗裕皇帝), tên thật là Lê Ninh (黎寧), là vị hoàng đế thứ 12 của nhà Hậu Lê và là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Người trong thiên hạ đồn đại rằng, ông là người không rõ hành tích ( lý lịch), lại còn mang tên Chúa Chổm với nhiều giai thoại huyền bí xen lẫn hài hước. .
Theo sử ký chính thống nhà Lê – Trịnh, thì Trang Tông là con của Lê Chiêu Tông.
Trước khi lên ngôi nhà Mạc, quyền thần Mạc Đăng Dung giết hai vua nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Tông, sau đó là Lê Cung Hoàng rồi cướp ngôi nhà Lê, đóng đô ở Thăng Long còn gọi là Bắc Triều.
Vua Lê Chiêu Tông còn sót lại đứa con là Lê Ninh (sau lên ngôi gọi là Lê Trang Tông) được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao. Đến năm 1533, Lê Ninh được cựu thần Nguyễn Kim đón về làm vua, tái lập triều đại Hậu Lê để phò tá. Đến khoảng đầu thập niên 1540, quân nhà Lê (Nam Triều) đánh thắng Bắc Triều nhà Mạc, chiếm lại hai vùng Thanh Hóa và Nghệ An để làm căn cứ chống lại nhà Mạc. Từ năm 1533, Nam Triều chon thành Nhà Hồ làm kinh đô, còn gọi là Tây Đô ( 1533 – 1597) để tuyển binh chọn tướng, hiệu triệu dân chúng, tích trữ lương thảo mưu đồ làm lớn..
Lúc này, nhà Hậu Lê tuy được dựng lại (trung hưng) đứng đầu là Lê Trang Tông, nhưng quyền bính thực sự lại nằm trong tay Nguyễn Kim.
CHÚA TRỊNH KIỂM VÀ CÁC ĐỜI CHÚA KẾ TIẾP
Trịnh Kiểm này là người quyết đoán, dũng cảm, tài năng và có uy vũ. Truyền thuyết còn kể rằng Trịnh Kiểm giành được ngôi chúa là do bất ngờ được đất rồi “phất lên” nghiệp chúa một cách khó tin.
Sách Địa ký ghi lời dự đoán trước về thế đất để mả họ Trịnh như sau: . Tương truyền Trịnh Kiểm còn nhỏ, nhà nghèo thường bắt trộm gà hàng xóm để nuôi mẹ, ai cũng gét. Người ta bèn ném mẹ Kiểm xuống cái vực sâu gần làng. Qua một đêm bỗng vực đùn đất lên thành gò cao. Có một thầy địa lý đi qua nhìn thế đất ấy rồi phán rằng,” Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, Tộ truyền bát đại, khởi loạn tiêu tường.” Ý là , không phải đế, bá, (nhưng) quyền lực có thể làm nghiêng đổ thiên hạ, truyền được tám đời, khởi vạ ( do người thân) từ trong nhà gây nên .
Kể cũng ngạc nhiên, thành phần xuất thân quân vương của một nước có lý lịch “trộm cắp” nhưng lại được thiên hạ tung hô thờ sống suốt hai trăm năm. Dự đoán thời gian cầm quyền của Chúa Trịnh có phân đúng như lời thày địa lý khi xưa.
Thời đó người ta bảo đó là thiên mệnh (?!).
Trịnh Kiểm đi theo Nguyễn Kim mong lập nghiệp và được ông gả con gái yêu là bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Tháng 5 năm Ất Tị (1545), Nguyễn Kim bất ngờ bị một hàng tướng của nhà Mạc (tức Bắc triều) là Dương Chấp Nhất bỏ thuốc độc giết chết. Từ đó, tất cả quyền bính của Nam triều lọt hết vào tay con rể của ông là Trịnh Kiểm.
Có quân quyền trong tay, Trịnh Kiểm giết con cả Nguyễn Kim là Lãng quận công Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng là em Nguyễn Uông do khéo che đậy nên không bị giết. Trịnh Kiểm tự mình tiếp tục giữ quyền Tiết chế phò tá Lê Trang Tông. Việc Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông, kế tục Nguyễn Kim cầm quyền có nhiều uẩn khúc. Nhưng trong thời loạn thế bắt buộc ông ta phải dùng quyền mưu để giữ ngôi vị của mình..
Có một điều bất bình thường nữa, như trên đã nói, sử chính thống chép vua Lê Chiêu Tông sinh năm 1506, và bị Mạc Đăng Dung giết vào năm 1527. Con ông ta là Lê Trang Tông ( Chúa Chổm) sinh năm 1515. Hai bố con chỉ hơn nhau 9 tuổi (?). Đó là điều khiến các nhà nghiên cứu nghi ngờ vì khoảng cách tuổi tác giữa vua cha Chiêu Tông và vua con Trang Tông quá ngắn. Sử gia hồi đó tuy không dám nói toẹt ra nhưng họ cũng đã cố ý “lộ” ra điều này trong sử ký một cách khéo léo để cho người đời sau phán xét. Nhà Mạc, trong biểu tâu nhà Minh, về việc cướp ngôi nhà Lê cũng tố cáo rằng: Nguyễn Kim dựng con mình lên ngôi, nói dối là con của Chiêu Tông.
Nhưng rồi vua Trang Tông cũng qua đời vào năm 1548, Trịnh Kiểm tiếp tục phò tá con ông ta là Thái tử Lê Huyên lên ngai vàng, tức Lê Trung Tông. Sau 8 năm Lê Trung Tông chết không có con nối dõi, Trịnh Kiểm lúc đầu có ý cướp ngôi nhà Lê, nhưng theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đổi ý và chọn người tông thất dòng dõi Lê Trừ (anh ruột của Lê Lợi) để lên nối ngôi, đó là vua Lê Anh Tông.
Trịnh Kiểm, một nhà đại âm mưu đã làm theo điều này với một hàm ý sâu rộng rằng, nếu Lê Trang Tông là con Nguyễn Kim thật như nhà Mạc tố cáo thì đây là cơ hội Trịnh Kiểm dễ dàng dứt được sự dây dưa ân oán với hậu duệ Nguyễn Kim. Và từ nay toàn thiên hạ cùng các quan trung thành với nhà Hâu Lê đều an tâm rằng mọi người đang được khuông phò dòng dõi Hậu Lê chính thống, còn như nhà Minh bên TQ cũng hết cớ hoạnh họe. Như người ta thường nói” Chính trị là làm một điều không thể, thành có thể” – Một mũi tên trúng ba đích.
Trịnh Kiểm mất rồi (1545 – 1569) Trịnh Tùng (1570 – 1623) con thứ của Trịnh Kiểm lên thay.
Trịnh Tùng có trái tim sắt đá và tham vọng chính trị rất lớn. Ông ta từng giành quyền của anh trai là Trịnh Cối, khiến ông này phải mang theo vợ con đầu hàng và chết ở “đất” nhà Mạc. Năm 1592 Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, bắt được cha con Mạc Mậu Hợp liền giết ngay lập tức. Thấy vua Lê Anh Tông là người có vẻ không chịu khuất,Trịnh Tùng liền truy lùng, lừa bắt và giết hại ông vua này cùng bốn hoàng tử đã chạy trốn khỏi hoàng cung, rồi dựng Lê Thế Tông thay thế ngôi vua . Sau này vua Lê Kính Tông ((1599 – 1619) con rể Trịnh Tùng,từng ngồi trên ngai vàng tới 20 năm thấy mình bị mất quyền tỏ ra oán vọng nhà chúa cũng bị Trịnh Tùng giết chết .
Trịnh Kiểm là người đặt nền móng cai trị cho các chúa Trịnh sau này, còn Trịnh Tùng mới là người khởi đầu việc lập nên ngôi Chúa cầm quyền bên cạnh vua Lê và giữ quyền thế tập cho con cháu kế tục. Hành động của Trịnh Tùng có thể ví như Ngụy vương Tào Tháo thời Tam Quốc bên Tàu dành ngôi thế tử cho con là Tào Phi vậy.
Về đối ngoại, Chúa Trịnh Tùng có dấu ấn đáng nhớ.
Năm 1597 nhà Minh sai ủy quan Vương Kiến Lập đòi vua Lê Thế Tông trực tiếp làm lễ cống và tham gia hội khám tại ải Nam Quan với bọn quan tướng nhà Minh, một cử chí phiền nhiễu và rất hống hách.
Vua Minh có ý đồ sai quan quân dưới quyền nhân dịp này nếu thấy thuận lợi thìdùng súc mạnh hiếp đáp các tướng bên Nam rồi cướp vua Lê đưa về Trung Quốc để tìm cách can thiệp sâu vào nội tình Việt Nam. Được tin ấy, hai tướng của nhà chúa là Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu đề xuất với Trịnh Tùng đưa nhiều voi chiến và 5 vạn quân tháp tùng vua Lê Thế Tông lên biên giới tham gia hội này, và xin nếu như quân Minh gây hấn thì họ được quyền tùy cơ ứng biến ( đánh lại). Trịnh Tùng liền nghe theo.
Cũng may, thời gian này triều đình nhà Minh không còn mạnh như thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, vả lại thất bại của Vương Thông ở Đông Quan và Liễu Thăng ở Chi Lăng hơn trăm năm trước khiến quan tướng nhà Minh cho đến lúc này vẫn chưa hết ”tim đập chân run”.
Quả nhiên khi đến hội khám, các quan tướng nhà Minh thấy quân Nam rất uy vũ, lại có đề phòng từ trước sợ mưu đồ không thành công nên đã bỏ ý định khiêu khích ban đầu.
Một bài học ngoại giao kiểu “lễ tiền binh hậu bác đồng phục sau” của Chúa Trịnh Tùng đối với nhà Minh rất đáng khen ngợi.
Sau ngày Trịnh Tùng mất , Chúa Trịnh Tráng lên thay.ngôi chúa. Thời gian này cũng có sự kiện đáng chú ý. Đó là vào mùa đông năm 1651, Trung Quốc có loạn, Quế Vương nhà Minh tuy bị quân Nhà Thanh đánh thua tơi tả, chạy dài đến tận Nam Ninh, mà vẫn sai sứ dụ bảo Trịnh Tráng cấp cho binh lương giúp mình chống Thanh, đồng thời phong chúa Trịnh Tráng làm An Nam phó Quốc vương.
Sau Trịnh Tráng là Trịnh Tạc tiếp theo là đến Chúa Trịnh Căn với 26 năm cầm quyền. Trịnh Căn từng được vua Lê phong làm Nguyên soái, tước Định Nam Vương và tự mình xưng là Phó Vương. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Nhân vật chí”, sử gia Phan Huy Chú có nhận định về Trịnh Căn:
“ Vua tôn trọng chúa khác thường, tấu sớ không phải đề tên, vào chầu không phải lạy, lại cho đặt ghế ngồi coi chầu ngay bên tả, đủ các thứ yêu chuộng. Về chính trị thì thưởng phạt rõ ràng, mối giường chỉnh đốn, sửa sang nhiều việc, cất dùng các anh tài, thành tích trông thấy rõ rệt. Chúa phò Lê Hy Tông giữ chính quyền 26 năm, thọ 77 tuổi. ”
Xem thế đủ biết , uy danh của nhà Chúa thật đáng nể.
Trịnh Căn mất con Trịnh Cương là Trịnh Giang lên thay. Sách VũTrung tùy bút của Phạm Đình Hổ cho hay : Trịnh Giang là kẻ dâm loạn, từng tư thông với Kỳ Viên phi Đặng Thị (người xã Trà Đổng, huyện Tiên Du, nay thuộc Bắc Ninh), vốn là vợ lẽ của cha là chúa Trịnh Cương. Bị bà Vũ Thái phi (mẹ của Trịnh Giang) phát giác, Kỳ Viên phi Đặng Thị bị ép phải tự tử.
Trịnh Giang khi giữ ngôi chúa làm nhiều việc bạo nghịch, như tự ý ban việc mua quan, bán tước : “ Trịnh Giang hạ lệnh cho quan và dân, nếu ai nộp tiền thì sẽ được bổ làm quan hoặc thăng chức tước. Cả quan và dân đều cho phép được nộp tiền để xét cất nhắc như sau : Quan trong triều từ lục phẩm trở xuống, nếu nộp 600 quan sẽ được thăng chức một bậc, dân thường mà nộp 2.800 quan sẽ được bổ làm Tri phủ, nộp 1800 quan sẽ được bổ làm Tri huyện”.
Trịnh Giang càng ngày càng tiếm quyền, tự ý giết vua Lê Đế Duy Phường , bày cách ăn chơi dâm loạn không còn chừng mực gì nữa. Chừng như bị Trời Phật giáng họa. Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, nhân đó mà mắc bệnh kinh quý, hễ nghe có sấm sét là kinh hồn bạt vía. Sau 10 năm cầm quyền, Trịnh Giang bị hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa, đào đất làm cung Thưởng Trì cho Trịnh Giang ở thêm 20 nǎm nữa mới mất (tháng 12 âm lịch năm 1761, tức đầu năm 1762), thọ 51 tuổi, được tôn là Dụ Tổ Thuận vương .
Người nối nghiệp chúa của Trịnh Giang là Trịnh Doanh ( con Trịnh Cương) cầm quyền 27 năm thì mất, con là Trịnh Sâm lên thay.
Trịnh Sâm (cầm quyền 1767 – 1782) được coi là chúa giỏi. Thời gian ông ta cầm quyền được coi là khá thịnh trị. Cũng như các bậc tiền bối, Trịnh Sâm là người bạo liệt ngang nhiên khuynh loát triều chính, Vì mang lòng gen gét mà đang tâm sai giáp binh xông vào tận cung vua để bắt và giết cả thái tử Lê Duy Vỹ, khiến vua Lê Hiển Tông đương kim hoàng đế phải kiêng rè. Trịnh Sâm dẹp tan khởi nghĩa Lê Duy Mật ở Nghệ An, chặn đứng Hoàng Công Chất khởi loạn ở Thanh Hóa khiến ông này phải thua chạy.
Thấy phía Nam của Chúa Nguyễn có bạo loạn, Trịnh Sâm thân dẫn đại quân Nam tiến, sai Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đưa quân đội tiến thẳng vào Phú Xuân, bắt diệt quyền thần Trương Phúc Loan, đánh đổ chúa Nguyễn, tiến đến Quảng Nam bức nhà Tây Sơn đứng đầu là Nguyễn Nhạc phải hàng, uy danh lừng lẫy. Chỉ khi Quận Việp trên đường ra bắc rồi bị ốm chết, tình hình Đàng Trong lại bắt đầu bất ổn.
Lúc này cơ đồ nhà chúa Trịnh suy vong rất nhanh do trong nước gặp cảnh hạn hán, mất mùa, dân bị đói, giá gạo cao, mà ruộng chiêm thì khô nẻ, công việc làm ruộng không được tiện lợi. Người ta hợp nhau ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp. Nhân dân không được yên nghiệp làm ăn.
Trịnh Sâm lại sủng ái Tuyên Phi Đặng Thị Huệ. Bà phi này được sách Hoàng Lê nhất thống chí khen là “mắt phượng mày ngài, vẻ người thập phần xinh đẹp”. Thị Huệ sinh ra Trịnh Cán tạng người yếu đuối, mới tý tuổi đã sớm mắc bệnh phòng tích ( ăn nhiều đồ bổ không tiêu hóa được sinh bụng to, lồi rốn, người xanh xao) khiến danh y Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác cũng phải bó tay. Do Trịnh Sâm vì quá yêu Thị Huệ mà phế con trưởng là Trịnh Tông rồi lập Cán làm thế tử, lại ủy quyền cho Quận Huy, một võ quan làm việc phò tá. Bởi Trịnh Sâm ốm yếu luôn nên các phe cánh đứng đầu là Thị Huệ cùng Quận Huy tìm mọi cách giữ ngai chúa cho Cán. Sự “thân mật” giữa Thị Huệ và Quận Huy khá lộ liễu khiến người trong dân gian đặt vè chế riễu: “ Trăm quan có mắt như mờ, để cho Huy Quận vào rờ chính cung”.
Trịnh Sâm chết, kiêu binh nổi loạn giết Quân Huy. Sự đời xưa nay, thất thế hết vây cánh thì “dậu đổ bìm leo”, Thị Huệ, vợ yêu của Chúa, một mỹ nữ bị người nhà chúa bạc đãi uất quá mà tự vẫn, thật tiếccho một đời hoa! Con là Trịnh Cán chỉ được vài bữa cũng chết. Trịnh Khải ( còn gọi là Trịnh Tông) được bọn kiêu binh đưa lên ngôi chúa trong buổi loạn trào mà chẳng mấy vinh quang. “ Đục cùn thì giữ lấy “tông” , đục long “cán” gẫy còn mong nỗi gì”.
Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), khi Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh tấn công ra Bắc Hà, Trịnh Tông không địch nổi, phải bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn, nhưng lại bị người học trò của tiến sỹ nho thần Lý Trần Quán là Nguyễn Trang bắt nạp cho Tây Sơn. Dọc đường bị áp giải, Trịnh Tông tự tử thọ 26 tuổi.
Tháng 9 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ rút quân vào nam, Lê Chiêu Thống lên làm vua, Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại khuynh loát triều chính ra tay dẹp loạn. Hữu Chỉnh là người có tài, nhiều mưu lược và rất thạm vọng quyền bính. Thấy ghế Chúa Trịnh còn để trống, các thế lực thân chúa Trịnh như Dương Trọng Tế, Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng.thi nhau ngóc đầu dậy đều bị Hữu Chỉnh đập tan. Tôn thất chúa Trịnh là Trịnh Bồng ( sử không ghi chép rõ lí lịch ông này) tự lập làm chúa, xưng là Nguyên soái. Trịnh Bồng bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi phải trốn đi tu, sau cũng bị giết . Trịnh Bồng là chúa Trịnh cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Sự đời vốn luẩn quẩn. Trước đó, vua Mạc Mậu Hợp thất thế cũng từng phải giả làm nhà sư vào chùa ở ẩn rồi bị chúa Trịnh giết. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Vua quan tranh quyền cướp vị giết nhau như ngóe, sự đời quay tít như đèn cù chẳng ra thể thống gì. Vì thế dân tình mới có câu chế riễu những kẻ cầm quyền thời ấy : “ Con vua thì lại làm vua, con sãi ra chùa phải quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Còn Hữu Chỉnh tuy được vua Lê phong tới tước Bằng Quận công nhưng có ý đối địch với nhà Tây Sơn. Bấy giờ , tướng Tây Sơn Võ văn Nhậm được lệnh tiến đánh ra bắc, Hữu Chỉnh thua trận bị quân Tây Sơn bắt sống đem xé xác ở cổng thành.
Sinh thời Nguyễn Hữu Chỉnh hay dùng quyền mưu, ông ta thích xem xét đại thế thiên hạ, cầu người quyền thế để tìm địa vị của mình trong xã hội. Hữu Chỉnh từng theo Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, sau lại theo Nguyễn Nhạc trong Nam, cùng Nguyễn Huệ diệt Trịnh Tông, đánh chiếm Thăng Long, rồi làm mối cho Nguyễn Huệ cưới công chúa Ngọc Hân, cón gái vua Lê Hiển Tông, sau cùng thì làm phụ thần cho Lê Chiêu Thống. Sinh thời Hữu Chỉnh rất giỏi thơ quốc âm, từng có bài Vịnh Pháo:
Giấy xanh giấy đỏ cậy tay người
Bao nả công trình tạch cái thôi!
Kêu lắm lại càng tan xác lắm
Trước sau cũng một tiếng trên đời…
Người ta bảo, thơ “vận” vào người. Bài thơ này có kết cục như chính cuộc đời của ông vậy.
THỰC CHẤT HAI CHÍNH QUYỀN SONG HÀNH KIỂU LƯỠNG ĐẦU CHẾ THỜI LÊ TRỊNH.
Lưõng đầu chế là danh nghĩa, thực quyền chỉ dành cho các đời Chúa bên Phủ liêu.
Các Chúa Trịnh lấy tiếng là phò vua, nhưng lại luôn lấn át triều cương, khiến vị trí của các Hoàng đế nhà Hậu Lê thời Trung Hưng ngày càng bị lu mờ. Đây cũng là điều mà người đương thời cho là bất hợp lý, bởi trong triều đại phong kiến đã quy định, chỉ có Hoàng đế mới là người quyết định tối cao nhất trong các công việc của đất nước. Tiếm quyền, phế lập, hoặc lấn át, khinh nhờn vua được coi là tội “ khi quân phạm thượng” “ bất nghịch vô đạo” đáng bị chu di cửu tộc.
Đánh giá về nhà Lê Trung Hưng song hành với các chúa Trịnh trong thời gian cầm quyền, xét về tính chính thống , nhà sử học Văn Tạo từng cho rằng ” Họ Mạc là ngụy công khai, còn họ Trịnh mới là ngụy giấu mặt”.
Chúa Trịnh đã tạo được tới 9 đời chúa có thực quyền, chấp chính suốt từ năm 1545 tới tận năm 1782 . Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ không một vương triều nào nắm được thực quyền lâu đến như vậy.
Các chúa Trịnh từng bắt ép vua Lê phong vương tước cho mình và duy trì cơ chế thế tập ngôi vị ( cha truyền con nối) cho con cháu họ Trịnh làm chúa đời đời nối tước Vương, thậm chí nhiều chúa còn ngông nghênh xưng là Phó Vương, điều hiếm có trong vương triều phong kiến Việt Nam.
Chúa Trịnh còn gả con gái cho các vua Lê để dễ bề kiềm chế. Vua Lê chỉ được hưởng lộc của khoảng hơn ngàn hộ, cùng với số lính bảo vệ kinh thành. Việc phế lập nhà vua đều do Chúa Trịnh chủ trương.
Khi thiết triều vua Lê mặc áo hoàng bào ngồi trên ngai vàng, Chúa Trịnh mặc áo tía ngồi trên sập ngay cạnh bên để sắp đặt đầu mối công việc. Các quan chầu ở phía dưới.
Suốt thời gian các chúa Trịnh cầm quyền, về hình thức tổ chức các hoạt động của triều đình theo mô hình “lưỡng đầu chế “ nhưng Chúa Trịnh luôn tìm mọi cách nắm chắc triều cương. Ở đây tôi chỉ muốn nhắc đến một ví dụ đặc trưng để mọi người dễ nhận biết cơ cấu tổ chức của triều Lê – Trịnh được các chúa Trịnh bày đặt như thế nào:
Chúa Trịnh đặt ra chức Tham Tụng tương đương với tể tướng còn có chức thấp hơn là Bồi tụng.
Chúa Trịnh tự lập ra Ngũ phủ (ban võ) và Phủ liêu (ban văn). Về danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng vương và đứng đầu hai ban này nhưng trên thực tế lại nắm hết quyền điều hành việc nước (quốc phòng, an ninh, kinh tế, đối ngoại…) Nghĩa là thâu tóm hết mọi quyền hành từ cung vua đưa về phủ chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư hàm làm nhiệm vụ nghi thức .
Nếu ở cung vua Lê có các Bộ như Bộ Lại, Bộ Hô, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình , Bộ Công, thì Phủ Chúa lại đặt ra Lục phiên. Đó là Lại phiên, Hộ phiên, Lễ phiên, Binh phiên, Hình phiên và Công phiên – các cơ quan tương đương với Lục Bộ của nhà vua để giúp Chúa kiểm soát triều đình.
Và tất nhiên những người đảm nhận các công tác bên Bộ và Phiên cũng phải đều do Chúa lựa chọn. Theo thói thường ăn lộcChúa thì tất phải hết lòng trung thành với Chúa, nhờ vậy mà Phủ Chúa gồm thâu hết mọi việc của vua Lê tồn tại suốt một thời gian dài.
Chúa Trịnh cũng nhiều phen muốn “móc ngoặc” với Trung Quốc làm hậu thuẫn xóa hẳn vua Lê Trung Hưng để lên cầm quyền, nhưng đã không thể thực hiện được. Vì hồi đó đất nước còn nạn cát cứ trầm trọng. Trong khi Vua Lê chúa Trịnh dưới áp lực của nhà Minh phải cắt hai vùng Tuyên Quang, Cao Bằng cho hai họ Vũ (chúa Bầu) và họ Mạc ( dư đảng nhà Mạc) tự trị. Thì khi ấy tại Đàng Trong công thần họ Nguyễn cũng đang tìm cách kết nối với nhà Minh để thừa dịp ly khai. Nếu chúa Trịnh xóa ngôi vua Lê thì họ trở thành mục tiêu “Phò Lê Diệt Trịnh” của các thế lực trong nước và ngoài nước thừa dịp khuấy đảo đất nước dẫn đến loạn ly.
Thời chúa Trịnh cầm quyền, với cung cách quản lý đất nước của các chúa, các vua Lê thời Lê Trung Hưng dù có muốn “ cựa quậy” gì thì cũng không thể… và cuối cùng thì khuất phục hoàn toàn. Vua Lê Hiển Tông lúc rỗi rãi chỉ biết rủ áo khoanh tay trong cung, bày đặt ra các khúc tuồng Tam quốc diễn nghĩa cho các cung nữ luyện tập để giải sầu. Ai hỏi đến việc làm vua thì ông nói : “Chúa chịu điều lo, ta hưởng cái vui”.
Hẳn các đời vua Hậu Lê luôn phải nhịn nhục lắm, cho mãi đến năm 1787, vua Lê Chiêu Thống, ra hẳn một chỉ dụ bãi bỏ hẳn tổ chức Lục phiên, cùng với việc đốt Phủ họ Trịnh ở Thăng Long. Lập tức trong dân gian xuất hiện câu đối rằng :
” Thiên hạ thất tự chung, chung thất, nhi đỉnh an tại. Hoàng thượng phần vương phủ ,phủ phần, tức điện diệc không”
Dịch nghĩa:
Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu nữa.
Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện có còn đâu!
. Đây cũng là thời điểm sắp cáo chung của chính quyền Lê Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong nước hồi đó truyền tụng câu sấm truyền được cho là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm” Trịnh tồn Lê tại, Trịnh bại Lê vong.” Và lịch sử đã diễn ra đúng như vậy.
Trong thực tế thì, Chúa Trịnh liên tục bên cạnh vua Lê Trung Hưng cầm quyền tại Việt Nam bằng một mối liên kết hai bên cùng có lợi. Lợi ít hay lợi nhiều phụ thuộc vào sức mạnh ảnh hưởng của mỗi bên trên bàn cờ thế cuộc.
Sau nhiều năm nội chiến với nhà Mạc, Chúa Trịnh và chúa Nguyễn lại gây chiến tranh với nhau là một bi kịch lớn trong lịch sử dân tộc, nhưng đổi lại nước Việt Nam được mở mang bờ cõi về phía Nam đến tận Mũi Cà Mâu với bờ biển dài hơn ba ngàn km, Tại vùng nước Biển Đông, nước ta có thêm diện tích hơn 1 triệu km bao bọc các hải đảo như Hoàng sa và Trường sa nhiều tôm cá và dầu khí.
Đây là một nỗ lực rất lớn trước hết thuộc về chín đời chúa Nguyễn đứng đầu là Tiên chúa Nguyễn Hoàng tài năng lỗi lạc. Chính ông đã cùng con cháu, họ mạc dẫn dắt các cuộc thiên di của dân tộc ta về phía nam trải dài hàng thế kỷ. Người đời sau có câu thơ “ Tự thuở mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.” Thật cảm hoài và đầy xúc động !
Trong Phúc có Họa, trong Họa có Phúc. Kể như không may mà lại rất may vậy.
