VŨ KHÍ VÀ CHIẾN TRANH CỔ ĐẠI – PHẦN 2: CẬN CHIẾN THỜI CỔ ĐẠI

VŨ KHÍ VÀ CHIẾN TRANH CỔ ĐẠI – PHẦN 2: CẬN CHIẾN THỜI CỔ ĐẠI

Link bài 1
https://www.facebook.com/groups/NghienCuuLichSu/?multi_permalinks=1181382735546361¬if_id=1590459423326658¬if_t=feedback_reaction_generic&ref=notif

VŨ KHÍ SỬ DỤNG KHI CẬN CHIẾN

Có ba loại vũ khí cận chiến. Loại thứ nhất dùng để đập vào người đối phương, không gây chảy máu. Điển hình cho loại này là gậy. Loại thứ hai dùng để chém, gây ra vết thương sâu cho địch thủ. Loại này ta có đao, rìu .v.v. Và loại thứ ba dùng để đâm, xuyên thủng cơ thể đối phương. Có các loại như dao găm, giáo, kiếm rất thông dụng.
Những loại vũ khí này sẽ luân phiên nhau phát triển. Người ta sẽ dần dần sử dụng các loại mới thay cho những loại trước đó. Chẳng hạn khi rìu ra đời thì quân lính sẽ sử dụng chúng thay cho gậy. Khi công nghệ luyện kim phát triển, người ta sẽ rèn được những lưỡi kim loại bén hơn, mỏng hơn cho giáo và kiếm. Và chúng sẽ thay thế rìu trở thành loại vũ khí thông dụng trên chiến trường.

Trượng các loại

Gậy là một trong những vũ khí cổ xưa nhất. Người tiền sử dùng nhiều loại gậy khác nhau. Nhưng vì chúng bằng gỗ nên dùng được ít lâu là phải bỏ. Gậy trở nên phổ biến khắp các xã hội cổ đại, dùng trong cả việc tế lễ và chiến tranh.
Gậy cổ đại sẽ được thiết kế sao cho đầu tấn công sẽ to và nặng hơn đầu tay cầm. Nhưng phải tính toán làm sao đó để sự chênh lệch về độ dày hai đầu không ảnh hưởng đến sức chiến đấu.
Người vùng Trung Đông nghĩ ra cách gắn thêm các loại vật liệu nặng khác vào đầu tấn công đến một độ nặng mà họ cho là thích hợp, lúc đó cây gậy sẽ được gọi là “trượng” (dịch từ ‘mace’ trong tiếng Anh)
Trượng có hai phần: tay cầm bằng gỗ và một vật nặng bằng kim loại hoặc đá gắn vào đầu bên kia. Vật nặng này chế theo hình cái bánh rán – hình tròn có cái lỗ ở giữa. Người ta sẽ nhét cây gậy vào trong cái lỗ này, buộc chặt lại để vật nặng không bị văng đi khi quật vào đối tượng. Một số loại đầu trượng còn được khắc hoạ tiết hoa văn với mục đích trang trí.
Một số cộng đồng thích dùng trượng hơn các loại vũ khí khác. Người Ai Cập và các nước hàng xóm xem trượng là vũ khí quan trọng nhất. Và đương nhiên trượng pháp của họ rất điêu luyện.
Người Mesopotamia, cách xa Ai Cập về hướng đông, thì lại không chuộng trượng. Binh lính của các nước vùng này luôn đội mũ khi ra trận. Loại mũ này tỏ ra rất hiệu quả khi đối chọi với các loại trượng, gậy khác nhau. Vậy nên người Mesopotamia bỏ hẳn gậy chuyển qua dùng giáo và rìu. Hai món này có thể xuyên thủng cơ thể, hoặc chặt bay đầu kẻ địch.
Không ngạc nhiên gì khi người Ai Cập tiếp tục dùng trượng suốt một quãng thời gian dài. Một mặt họ cố gắng cải tiến cây trượng bằng cách đập dẹp đầu tấn công và mài bén nó. Tuy làm vậy có thể giúp cây trượng có khả năng cắt vào da thịt địch thủ, nhưng đem ra đấu với mũ bảo vệ và áo giáp thì chắc chắn thua. Vậy nên cuối cùng thì những người Ai Cập bảo thủ cũng phải vĩnh viễn từ bỏ cây trượng của mình.
Nhưng kỳ lạ là món trượng tưởng đã bị quên lãng này 4000 năm sau lại hồi sinh, trong thời Trung Cổ tại châu Âu và châu Á. Đây là thời gian thường xuyên xảy ra các trận giáp chiến giữa bộ binh hạng nặng mặc giáp của các bên đối địch. Để đáp ứng nhu cầu của loại hình chiến tranh mới, trượng được cải tiến về hình dạng và độ tàn ác: người ta gắn vào đầu trượng một chùm kim loại vót nhọn. Những mũi kim loại này nhằm mục đích công phá áo giáp sắt của kẻ địch và đả thương họ.
Tuy trượng, gậy trong gần 5000 năm ít khi được dùng như vũ khí chính trên sa trường, nhưng nó lại là biểu tượng cho quyền lực. Trong những bức hoạ Ai Cập cổ, nhà vua hoặc các vị thần luôn cầm trên tay một cây trượng biểu trưng cho sự chiến thắng. Trượng luôn là vật đặc trưng cho quyền hành và sức mạnh. Biểu tượng này tồn tại cho tới thời hiện đại. Chúng ta thấy, vương trượng của nhà vua hay cây batong của các nguyên soái thật ra cũng chỉ là phiên bản hiện đại của loại vũ khí cổ xưa này.

RÌU CHIẾN

Trượng dần dần mất đi vị trí trên sa trường vì nó không thể xuyên thủng mũ và giáp của quân địch. Vậy nên người ta chế ra một thứ vũ khí ‘chém cũng được và đập cũng được’, có khả năng công phá mũ và áo giáp đối phương. Đó chính là rìu. Quan sát kỹ thì ta có thấy rìu là một phiên bản cải tiến của trượng bằng cách gắn lưỡi kim loại sắc bén cho nó. Thời ấy có hai loại rìu thông dụng. Một loại bản lớn, lưỡi bầu, dùng để tấn công những đối tượng không mặc giáp bảo hộ, ta tạm gọi là rìu chém. Một loại dài, lưỡi nhọn, dùng xuyên thấu mũ và áo giáp đối phương, ta tạm gọi là rìu phá giáp.
Bài toán khó nhất đặt ra cho các bác thợ rèn là làm sao gắn chắc được cái lưỡi rìu kim loại vào cán gỗ. Quy trình gắn lưỡi rìu này có tên gọi là “tra cán”. Có hai phương pháp tra cán thông dụng. Cách thứ nhất là thao tác ở phần cán. Người ta sử dụng một thứ gọi là ‘chuôi’ gắn vào cán rìu. Trên cái chuôi này có khoan lỗ để nhét lưỡi rìu vào, rồi cố định bằng đinh tán. (Mấy con dao làm bếp chế tác theo kiểu này)
Cách ‘tra cán’ thứ hai là thao tác trên phần lưỡi. Họ sử dụng một công cụ gọi là “đế” (socket). Đó là một cái ống bằng kim loại gắn vào lưỡi rìu. Sau đó tra cán vào trong cái đế này rồi cố định bằng đinh tán đóng xuyên qua. Nếu bạn không hình dung cái ‘đế’ này nó thế nào thì cứ lấy một cái xẻng mà quan sát.
Mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng. Ưu điểm chính của đế là nó chắc và bền, nên người ta mới sử dụng cho những vật dụng to nặng như là cuốc, xẻng. Với đặc tính bền chắc này thì thợ rèn sẽ áp dụng phương pháp tra cán bằng đế cho loại rìu dùng phá giáp. Vì khi nhắm mục đích này quân sĩ phải ra đòn mạnh hết sức có thể. Họ cần lưỡi rìu phải thật chắc.
Phương pháp dùng chuôi cũng có ưu điểm của nó. Nhanh, dễ, và rẻ hơn kiểu kia. Ngoài ra nó còn nhẹ vì chuôi đỡ tốn sắt hơn loại đế cồng kềnh. Có lẽ vì lý do này nên là những loại rìu bản rộng dùng bổ trực tiếp vào da thịt kẻ địch được chế tác bằng phương pháp chuôi.
Tuy rìu dùng chuôi ra đời trước, nhưng loại dùng đế cũng xuất hiện ít lâu sau đó. Năm 2500 TCN, các nền văn minh dọc vùng Mesopotamia (Irắc ngày nay) đã phát triển các loại rìu dùng đế, có lẽ là để cân những loại giáp trụ đang được dùng phổ biến hồi ấy.
Như bình thường, Ai Cập bị bỏ lại phía sau. Người Ai Cập cùng những người hàng xóm của mình không bao giờ mặc giáp, nên cũng chẳng cần rìu chiến làm gì. Mãi về sau này khi Ai Cập phải đối mặt với những đạo quân mặc giáp thì họ mới vội vã chế tạo những lưỡi rìu dùng chuôi để đâm thâu kẻ địch.
Càng về sau thì rìu phá giáp càng trở nên quan trọng, còn rìu chém, loại dùng chuôi, càng bị lép vế. Lý do là vì việc mặc giáp đội mũ đã trở thành bình thường trong thế giới cổ đại, và một lý do khác quan trọng hơn đó là sự phát triển của kiếm. So với rìu chém thì kiếm là thứ vũ khí hiệu quả hơn hẳn trong việc xiên que và cắt thịt kẻ thù. Và món binh khí này nhanh chóng trở thành ‘hàng nóng’ trang bị trong những đội quân hùng mạnh nhất thời cổ đại.
Trên thực tế thì đế quốc Roma chưa bao giờ xài rìu. Còn bộ lạc kém văn minh hơn ở bắc Âu và châu Á thì vấn tiếp tục chế tạo và sử dụng rìu chiến kể cả sau khi La Mã sụp đổ và tan biến cùng với những binh đoàn của nó.
Rìu chiến là một trong những loại binh khí cơ động và hiệu quả nhất của thời cổ đại. Ngoài những loại rìu phá giáp, chặt thịt tiêu chuẩn ra thì còn có những loại ‘XXL’ siêu to và nặng dành cho những chiến binh to khoẻ. Khi dùng loại rìu này phải cần tới cả hai tay mới thao tác được. Ngoài ra còn có những loại rìu mini được thiết kế chuyên dùng để phóng vào kẻ địch. Trên thực tế thì loại rìu như vậy không được xếp vào hạng binh khí cận chiến. Chính xác hơn thì ta có thể gọi nó là ‘tên lửa tầm trung’.
Cũng như trượng, rìu chiến là một thứ binh khí lễ nghi quan trọng. Loại rìu Đan Mạch bản rộng là biểu tượng cho hoàng gia Anh suốt thời Trung Cổ. Trước đó thì người La Mã dùng hình ảnh cái rìu có hai sợi dây thừng cuốn quanh cán làm biểu tượng cho sự cai trị. Các loại vũ khí lễ nghi này được sử dụng trong những nghi thức hoàng gia và là nghi trượng dẫn đường khi các quan chức cao cấp đi lại. Rìu biểu tượng của La Mã được gọi là fasces. Nó còn được dùng làm logo cho một phong trào chính trị xuất hiện tại châu Âu thập niên 1930. Những người của phong trào này tự gọi mình là “fascist” (phát xít) và dùng fasces làm biểu tượng cho mình.

Sự phát triển của kiếm

Những trận giáp chiến thời cổ đại thường được minh hoạ bằng một trận đấu kiếm tay đôi giữa hai cao thủ kiếm pháp. Nhưng thật ra giai đoạn đầu của thời cổ đại kiếm chưa hề xuất hiện. Kiếm chỉ bước vào vũ đài lịch sử cách đây khoảng 3000 năm, rất lâu sau trượng, rìu chiến, cung tên, giáp trụ, và giáp là những ‘trang bị cơ bản’ của binh lính cổ đại. Hình ảnh một kiếm sĩ tung hoành trong đám loạn quân để giải cứu một công nương nào đó không phải vẽ thời cổ đại, nhưng thuộc về thời Trung Đại, rất lâu sau khi các nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Lưỡng Hà, và Ai Cập đã biến mất.
Có hai lý do tại sao trong bộ sưu tập vũ khí cổ đại lại không có kiếm. Thứ nhất là vì kim loại thời cổ đại còn rất mềm và yếu, không làm kiếm được. Thử tượng một lưỡi kiếm bằng đồng, mỏng, dài thì làm sao đủ cứng để đâm vào áo giáp. Vậy nên những loại vũ khí thời cổ đại phải chịu giới hạn lớn về độ mỏng và độ bền. Nếu vượt qua những giới hạn ấy thì chúng sẽ bị cong hoặc gãy.
Lý do thứ hai là các xưởng rèn sơ khai không biết cách rèn kiếm. Các loại vũ khí cổ nhất chỉ bao gồm một cái cán dài bằng gỗ, đầu gắn một lưỡi chém nhỏ. Còn kiếm thì hầu như hoàn toàn bằng kim loại. Chỉ có phần tay cầm là bằng gỗ hoặc xương.
Tổ tiên của kiếm là dao găm. Dao chỉ có lưỡi dài khoảng 30cm là hết. Dao găm rất phổ biến thời cổ đại cho tới mãi năm 1500 TCN. Ngày nay chúng ta đào được rất nhiều hiện vật loại binh khí phòng thân này. Có một số con dao chế tác rất đẹp và tỉ mỉ tìm thấy trong mộ táng hoàng gia của vùng Lưỡng Hà cổ đại. Nhiều con dao làm bằng vàng ròng, có tay cầm bằng ngà voi hoặc đá quý khảm vàng ngọc tinh xảo.
Khi các thợ rèn chế tác dao nguyên khối, với lưỡi và tay cầm dính với nhau làm một, thì họ đã loại bỏ được bài toán rắc rối gắn lưỡi vào cán. Quan trọng hơn, sự phát triển của ngành luyện sắt đã mang lại cho các nghệ nhân cổ đại một thứ vật liệu đủ cứng để chế tác lưỡi kiếm mỏng, dài. Cuối cùng, các chướng ngại kỹ thuật đã được đả thông, dọn đường cho sự phát triển của kiếm sau này.

Trường kiếm và yêu đao

Tuy dao găm lưỡi ngắn đâm rất ngọt, nhưng người ta cần một thứ vũ khí có lưỡi dài hơn để vừa chém vừa đâm được. Có hai loại kiếm tiêu chuẩn được phát triển theo hai cách khác nhau. Loại kiếm thứ nhất gọi là ‘trường kiếm’, dùng để đâm bằng động tác phóng kiếm. Trường kiếm dài, mỏng, nhẹ, có mũi nhọn. Phần nặng của nó nằm gần chuôi để kiếm sĩ có thể kiểm soát được mũi kiếm khi xuất chiêu đánh kẻ địch.
Loại kiếm thứ hai gọi là ‘đao’, dùng để chém bằng thao tác ‘vút tay’. Đao có lưỡi nặng và dày, cạnh sắc bén. Phần nặng nhất của đao không phải tay cầm mà là sống đao, để tăng lực chém cho nó. Trái với trường kiế, lưỡi đao thường được làm cong, vì với hình dạng ấy nó sẽ tạo được vết thương dài hơn. Trường kiếm thì chỉ có một hình dạng tiêu chuẩn: dài, thẳng, và hẹp. Còn đao thì nhiều mẫu mã hơn, có cong có thẳng, có dài có ngắn, một lưỡi hoặc hai lưỡi.
Hai loại binh khí này cũng chìm nổi tuỳ theo các giai đoạn khác nhau thời cổ đại. Các đạo quân cần những thứ vũ khí vừa chém vừa đâm được, nhưng yêu đao hay trường kiếm chỉ đáp ứng được một trong hai mục đích trên. Nếu đạo quân nào dùng rìu chiến để chém, thì thường họ sẽ chọn trường kiếm để đâm. Mặt khác, nếu họ dùng giáo để đâm thì sẽ chọn đao để chém.

Kiếm ‘hai trong một’

Một trong những loại kiếm tối ưu và quan trọng nhất được sản xuất lần đầu tiên tại đông Âu, khu vực ngày nay thuộc Hungary. Loại kiếm này thẳng, hai lưỡi, đủ nặng để chém và đủ nhọn để đâm. Loại kiếm ‘hai trong một’ này rất được người Hy Lạp ưa chuộng. Họ mang theo chúng trong hành trình chinh phạt và giao thương của mình.
Loại kiếm 2 trong 1 này đã biến mất sau năm 1100 TCN, nhưng người La Mã lại sáng chế ra một phiên bản còn hiệu quả hơn nữa dùng cho hàng trăm năm sau. Phiên bản mới này có tên là glaudius, hay ‘kiếm Tây Ban Nha’ (vì nó làm bằng sắt khai thác ở Tây Ban Nha). Đây là binh khí tiêu chuẩn trong các binh đoàn La Mã. Kiếm Glaudius dài khoảng 60cm, hai lưỡi, thẳng, có mũi nhọn. Tuy nhẹ nhưng nó cân đối đến mức có thể dùng như đao. Khi xuất kiếm, binh sĩ La Mã có thể dùng nó để rạch toang áo giáp kẻ địch. Đồng thời, với trọng lượng nhẹ, lưỡi kiếm thẳng, và có mũi nhọn Glaudius có thể xuyên thấu bất kỳ đối tượng nào một cách hiệu quả.
Có thể bạn đã từng nghe những cao thủ dùng kiếm thời đế quốc La Mã được mệnh danh là Gladiator. Họ là những nô lệ, tù binh chiến tranh, và các loại tù nhân khác. Họ được trang bị kiếm glaudius để chiến đấu một mất một còn với thú dữ trong những sân vận động rộng lớn với đám đông theo dõi. Mục đích chỉ là để giải trí cho khán giả, những công dân Rome.
Trong khi các nước phương Tây đang miệt mài cải tiến các loại kiếm của mình thì ở phương Đông người ta đã là chuyên gia về một thứ binh khí gọi là ‘kiếm bầu’, loại vũ khí chết chóc nhất thời cổ đại. Tổ tiên của kiếm bầu là ‘kiếm lưỡi liềm’, rất phổ biến trong các đạo quân Trung Đông cổ đại khoảng năm 2000-1000 TCN.
Lưỡi liềm là một thứ vật dụng cán gỗ, có lưỡi cong như trăng lưỡi liềm được nông dân sử dụng để thu hoạch lúa. Phần lưỡi sắc của nằm ở mặt trong của nó để người ta vòng cái liềm qua bó lúa mà cắt.
Nhưng kiếm lưỡi liềm thì được mài bén cạnh ngoài, gắn vào một cái cán dài sao cho lưỡi kiếm cong về phía người sử dụng. Đây là một thứ binh khí rất linh hoạt, cứ vung bừa lên là được.
Ban đầu, cán của kiếm lưỡi liềm dài gấp đôi lưỡi, nhưng theo thời gian thì cái lưỡi ngày càng dài hơn và nặng hơn, còn cán thì ngắn lại. Cuối cùng, kiếm lưỡi liềm tiến hoá thành kiếm bầu mà các đạo quân phương Đông sử dụng với sức sát thương rất cao. Ví dụ, người Hy Lạp ngoài giáo dùng để đâm thì họ xài một loại kiếm bầu tên là kopis để chém. Các bức hoạ thời Hy Lạp cổ đại cho thấy binh sĩ Hy Lạp sử dụng kopis, họ vung lên quá đầu rồi xả xuống địch nhân. Các loại kiếm bầu được sử dụng phổ biến ở phương Đông cho tới tận thời hiện đại, và là vũ khí ưa chuộng của kỵ binh Nga khi họ xông pha trên các vùng sa mạc Ả Rập.
Bên trên là khái quát những loại binh khí phổ biến được dùng trong cận chiến thời cổ đại. Họ có vô số các loại rìu, dao, dao găm, kiếm. Tất nhiên không phải lúc nào cũng cần giáp chiến với kẻ địch. Nếu may mắn thì họ có thể tiêu diệt kẻ địch từ xa bằng những món binh khí tầm trung. Và chúng ta sẽ bàn tới loại bình khí này trong bài tiếp theo.
(Dịch nguyên văn từ sách Weapons and Warfare in Ancient Times của tác giả Rivka Gonen, 1976)





Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *