Nếu điều tra tất cả những người đã mãn hạn tù, nói không chừng có thể tìm ra hung thủ.
Cảnh sát trước đây đã mở một số cuộc điều tra và mục tiêu của họ đều là những người có tiền án về tội hiếp dâm tập thể. Thế nhưng, phạm vi điều tra này quá hẹp và cần phải được mở rộng.
Câu hỏi được đặt ra là: hung thủ là người ở nơi này hay người ở nơi khác?
Nếu là người ở nơi khác, việc điều tra những người được thả sau khi đã thụ án xong ở Quảng Châu sẽ là vô nghĩa.
Các chuyên gia điều tra tội phạm đã nhiều lần tổ chức họp để phân tích những điểm mấu chốt của vụ án. Cuối cùng, hầu hết mọi người đều nhận định rằng hung thủ đến từ Quảng Châu.
Vì sao? Vì những nơi mà hung thủ vứt xác khá đặc biệt. Nhiều địa điểm trong số này không phải là các vùng ngoại ô và các quận, mà là các vùng ven vùng ngoại ô. Những khu vực này cách khu dân cư đông đúc không xa, nhưng lại rất hẻo lánh, là nơi yên tĩnh giữa khu vực náo nhiệt. Các nhà điều tra tội phạm cho rằng hung thủ hẳn phải là người dân địa phương, hắn đã sống ở đây từ nhỏ và rất quen thuộc với thành phố Quảng Châu nên mới lựa chọn nơi vứt xác kỹ như thế.
Một nửa số nơi vứt xác, hoặc cách rất xa hoặc rất gần với thị trấn Tân Diếu – ngoại ô phía đông nam Quảng Châu. Chuyên gia điều tra hình sự tin rằng hung thủ có khả năng đã từng sống hoặc đang sinh sống tại thị trấn Tân Diếu thuộc quận Hải Châu.
Dựa trên nhận định này, bắt đầu từ cuối năm 1992, đội đặc nhiệm đã mở rộng lên tới hơn 100 người và phát động một cuộc điều tra quy mô lớn. Riêng tại thị trấn Tân Diếu, hơn 3.260 người đã bị điều tra, và mở rộng tìm thêm 600 manh mối. Đồng thời, nhiều lực lượng cảnh sát khác đã được triển khai và 50 chốt kiểm tra phương tiện đã được thiết lập vào ban đêm trên toàn huyện.
Hơn nữa, một số đối tượng khả nghi đã được phát hiện trong quá trình làm việc, và 86 vụ án hình sự khác đã được giải quyết. Trong đó có 2 vụ án mạng không nằm trong chuỗi án này. Có tới 46 nghi phạm đã bị Phòng Điều tra Hình sự Thành phố điều tra, truy lùng và lấy mẫu; có hai nghi phạm cũng bị bắt vì cưỡng hiếp, giết người và chôn xác ở Đông Hoàn và Huệ Châu.
Thế nhưng, vẫn chưa tìm ra được hung thủ. Vụ án lại đi vào ngõ cụt.
Đến năm 1993, số nạn nhân lên tới 12 người, nhưng cảnh sát vẫn không hề biết danh tính của bất kỳ người nào, chưa nói đến việc tìm ra danh tính, nghề nghiệp và tâm lý chung của hung thủ.
Thời điểm này, truyền thuyết về kẻ giết người cắt bỏ ngực đã được bàn tán sôi nổi trong xã hội.
Có một khoảng thời gian, đặc biệt là gần thị trấn Tân Diếu ở quận Hải Châu, tất cả phụ nữ, từ bé gái 8 tuổi cho đến cụ già 80 tuổi, đều ngại ra ngoài một mình. Những người đi làm hay đi học về muộn vào đêm tối đều cần có người thân, bạn bè đưa đón. Họ không muốn để đồng nghiệp nam ở nhà máy hay bạn học nam ở trường đưa về; nếu không có ai đưa đón thì họ không đi làm, đi học.
Những lời nói xúc phạm, bàn về sự kém cỏi của cảnh sát Quảng Châu ngày càng nhiều hơn. Tin tức thậm chí đã lan đến cả Hồng Kông và được báo chí nơi này đưa tin rầm rộ.
Trường hợp này rất giống với trường hợp của vụ “sát thủ đêm mưa” ở Hồng Kông Lâm Quá Vân, nhưng có nhiều nạn nhân hơn. Truyền thông Hồng Kông thổi phồng vụ án thành “sát thủ đêm mưa” của Quảng Châu, và một số tờ báo lá cải thậm chí còn viết tin như một cuốn tiểu thuyết.
Hung thủ tiếp tục gây án. Đến đầu năm 1994, số nạn nhân đã tăng lên 16, đây là vụ án nghiêm trọng nhất ở tỉnh Quảng Đông.
Cả cảnh sát Quảng Châu và tỉnh Quảng Đông đều cảm thấy áp lực vô cùng.
Trong lúc tuyệt vọng, họ đã nhờ Bộ Công an hỗ trợ, và Bộ Công an ngay lập tức cử những chuyên gia điều tra tội phạm hàng đầu trong nước!
Những chuyên gia này đều rất nổi tiếng, đều là những nhà điều tra tội phạm hàng đầu ở Trung Quốc, đã từng giải quyết vô số vụ án. Qua phân tích vụ án và hiện trường, họ đã phát hiện ra những điểm mới về vụ án.
Họ đã phân tích hiện trường và tìm ra một điểm rất thú vị.
Khi phân tích di vật và hài cốt của nạn nhân, họ bất ngờ xác định được danh tính nạn nhân.
Trước đó, cảnh sát đã hoang mang về danh tính của nạn nhân. Có tới 16 người đã thiệt mạng liên tiếp, nhưng không có ai trong danh sách mất tích.
Sau năm 1992, thành phố Quảng Châu đã mở rộng phạm vi điều tra vụ án ra toàn tỉnh Quảng Đông, và cuối cùng chỉ xác định được danh tính của nạn nhân đầu tiên.
Nạn nhân quê ở thành phố Phiên Ngung ( quận Phiên Ngung ngày nay), họ Hoàng, mới 22 tuổi, chưa lập gia đình, làm việc ở Quảng Châu đã lâu! Trước ngày 7/2/1990 , cô Hoàng đã xin nghỉ việc do mẹ cô mắc bệnh hiểm nghèo và trở về Phiên Ngung để chăm sóc mẹ. Không ngờ rằng, không lâu sau đó, mẹ cô đã từ trần; ngày 7/2, cô trở lại Quảng Châu, chuẩn bị tìm một công việc khác.
Sau khi cô rời nhà đi, các anh chị cô đều mất liên lạc với cô, không ai còn gặp lại cô. Mối quan hệ giữa cô và các anh chị không được tốt lắm, gia đình lầm tưởng rằng cô cố tình không liên lạc với gia đình vì phải làm ở nhà máy và lúc đầu không để ý việc này. Mãi đến vài tháng sau, gia đình mới biết cô mất tích, hốt hoảng trình báo vụ việc.
Vì nạn nhân không phải là người gốc Quảng Châu, nên không được đưa vào danh sách trong các cuộc điều tra trước đó.
Năm 1992, cảnh sát Quảng Châu mở rộng điều tra ra toàn tỉnh vì không tìm ra được danh tính của nạn nhân, sau đó họ mới phát hiện ra nạn nhân là một cô gái họ Hoàng.
Đáng tiếc, việc tìm ra danh tính của nạn nhân đã không giúp ích gì cho việc giải quyết vụ án.
Theo ông chủ cũ và đồng nghiệp của cô Hoàng, họ đã không gặp cô hơn một năm, người ta nói rằng cô đã về quê để chăm sóc mẹ bị bệnh nặng.
Một số người bạn của cô kể lại rằng sau ngày 7/2 (ngày mà cô Hoàng trở về Quảng Châu), họ chưa bao giờ thấy nạn nhân đến gặp mình.
Có vẻ như nạn nhân đã bị hung thủ giết trên đường đến Quảng Châu vào ngày 7/2.
Hung thủ và nạn nhân trước đó không quen biết nhau, không thể tìm ra ai là thủ phạm.
Điều kỳ lạ hơn nữa là, ngoại trừ nạn nhân đầu tiên, tất cả các nạn nhân còn lại đều không xác định được danh tính và không nằm trong danh sách những người mất tích ở tỉnh Quảng Đông.
Không thể xác định được danh tính của những người này thì rất khó để tìm ra quy luật phạm tội của kẻ sát nhân.
Vì lý do này, vụ án đã không thể có bất cứ điểm đột phá trong một thời gian dài và trở thành một vụ án chưa thể phá được.
Không ngờ, các chuyên gia điều tra tội phạm của Bộ Công an lại có phát hiện lớn ở những điểm “nhỏ”.
Họ phát hiện ra rằng mặc dù hầu hết các cô gái đều khỏa thân nhưng một số vẫn còn đeo một số đồ trang sức. Những chiếc bông tai và nhẫn này có màu vàng sáng và dường như được làm bằng vàng nguyên chất nên rất có giá trị.
Trước đó, các chuyên gia điều tra tội phạm Quảng Châu cũng nhận thấy điều này, nên suy ra rằng hung thủ muốn thực hiện một vụ cướp chứ không phải muốn giết người. Tuy nhiên, các chuyên gia của Bộ Công an đã cẩn thận phát hiện ra điểm mới. Trong số đó, có một chuyên gia đã có thâm niên trong nghề, khi ông cầm chiếc nhẫn vàng lên xem, đã phát hiện đó là vàng giả. Những cặp bông tai, vòng tay khác, thậm chí cả kim bài, tất cả đều là hàng giả.
Những đồ trang sức này trông giống như vàng, nhưng nó không phải là vàng, mà là kim loại mạ vàng.
Hóa ra chúng là những đồ trang sức giả vô giá trị!
Vì vậy, đây là điểm có vấn đề! Ai cũng biết người Quảng Đông, đặc biệt là phụ nữ Quảng Đông rất sĩ diện.
Không đeo vàng hay bạc còn được, chứ đeo trang sức giả thì ngượng chết. Nếu ai đó nhìn thấy bạn đeo đồ trang sức giả, bạn có bị mất uy tín không? Bạn có còn dám nhìn mặt mọi người không? Điều này không phù hợp với lối sống của người Quảng Đông.
Phụ nữ Quảng Đông bình thường sẽ không bao giờ làm điều như vậy.
Nếu chỉ có một hoặc hai người đeo trang sức giả, không phải không thể hiểu được, suy cho cùng, trong đám đông luôn có những người khác biệt. Nhưng hầu hết nạn nhân đều đeo trang sức giả, điều này rất kì lạ.
Điểm này không thể làm khó các chuyên gia lão làng.
Họ có trung bình là 30 năm trong ngành điều tra tội phạm, đã từng dạy và đang dạy cho rất nhiều người, chưa gặp cũng có thể biết những người này đang làm gì!
Họ đưa ra một kết luận gây sốc: tất cả các nạn nhân đều là gái mại dâm.
Toàn bộ Quảng Châu, chỉ có một loại phụ nữ chuyên đeo rất nhiều trang sức giả có vẻ đắt tiền, đó là gái ngành.
Như chúng ta đã biết, công việc của gái ngành rất nguy hiểm, thường xuyên bị đánh đập, cướp giật, tỷ lệ cướp bóc lên tới 90%. Nếu gái ngành không có tiền hoặc chống cự, tình huống sẽ dễ dàng tiến triển thành vụ cướp, gây thương tích hoặc thậm chí là vụ giết người.
Một trong những quy tắc của gái ngành là mang theo một hoặc hai món trang sức giả. Trong trường hợp bị cướp, họ sẽ chủ động đưa ra trang sức giả để làm phao cứu mạng. Một số tên cướp không biết phân biệt sẽ lấy, còn có đánh người không thì không biết.
Ngoài nghề này ra, không có nghề nào khác có đặc điểm này.
Căn cứ vào phán đoán này, cảnh sát một lần nữa phán đoán thi thể nạn nhân, thấy rằng nạn nhân đã nhuộm tóc, nhưng không phải kiểu bình thường. Hầu hết đó đều là những kiểu tóc khoa trương, không giống với kiểu của những người phụ nữ bình thường xuất thân từ gia đình nề nếp.
Họ đều sơn móng chân và móng tay, những bà nội trợ bình thường thường không làm điều này.
Không có nhiều quần áo còn lại tại hiện trường, và phân tích thấy rằng đó là loại quần áo tương đối hở hang, sexy và rẻ tiền, phù hợp với đặc điểm của gái ngành.
Khám nghiệm tử thi cũng cho thấy một số nạn nhân đã mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Những chuyên gia lão làng đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất của vụ án trong nháy mắt: nghề nghiệp của các nạn nhân đã được xác định.
Điều này cũng giải thích tại sao không thể xác định được danh tính của nạn nhân trong suốt 2 năm.
Họ đều là người ngoại tỉnh, sau khi đến Quảng Châu thì lấy tên giả để che giấu danh tính.
Đương nhiên, họ không nói cho người thân biết, tự mình tìm “chỗ đứng”.
Những cô gái trẻ này có điểm chung: thứ nhất, họ hiếm khi kết bạn; thứ hai, mối quan hệ với các thành viên trong gia đình thường xa cách, thậm chí thù địch.
Vì vậy, bất kể người thân hay đồng nghiệp, đều không biết tên thật và thân phận của nạn nhân.
Gái ngành, đặc biệt là gái đứng đường, thường nay đây mai đó. Có hôm ở chỗ này, có hôm ở chỗ khác, nơi ở không hề cố định. Nếu gái ngành, đặc biệt là gái đứng đường, biến mất đột ngột, sẽ không ai quan tâm cả, và cũng không ai gọi cảnh sát. Ngay cả khi họ mất tích, tú bà cũng không dám gọi cảnh sát, xét cho cùng, mại dâm vẫn là nghề bất hợp pháp.
Nếu xác định được nghề nghiệp của nạn nhân thì vụ án đã có nhiều tiến triển đáng kể.
Cảnh sát lập tức xem xét các tài liệu về gái ngành, đặc biệt là đối chiếu dấu vân tay mà họ để lại.
Do số lượng gái khá lớn, số lượng cảnh sát tham gia không chỉ giới hạn ở Quảng Châu, mà tiến hành khám xét toàn bộ tỉnh Quảng Đông và cả các tỉnh lân cận.
Cảnh sát Quảng Châu đã rất nỗ lực để kiểm tra các dấu vân tay trong hồ sơ ( lên tới 1,6 triệu ), và cuối cùng đã tìm thấy dấu vân tay của hai nạn nhân.
Theo thông tin để lại trên Phụ Giáo Sở, danh tính và địa chỉ nhà của hai nạn nhân đã được xác định.
Cảnh sát tức tốc về quê họ để điều tra thân nhân thì phát hiện hai người này đúng là gái mại dâm, cả hai đều từ tỉnh khác vào Nam kiếm tiền.
Các thành viên trong gia đình họ vội vã đến Quảng Châu và xác nhận rằng các thi thể là của họ.
Việc xác định được danh tính của nạn nhân khiến cảnh sát Quảng Đông rất vui mừng.
Đáng tiếc, niềm vui chẳng kéo dài được bao lâu.
Gái mại dâm là một nghề đặc biệt, một khi đã giết người thì hầu như không thể lần ra dấu vết của kẻ sát nhân. Hầu hết gái mại dâm và khách hàng của họ đều không quen biết nhau, nên không thể tìm ra danh tính của hung thủ thông qua các cuộc điều tra quan hệ xã hội thông thường. Ngay cả bản thân gái ngành cũng không biết khách hàng là ai!
Nếu tú bà bán dâm ở những khu vực cố định như tiệm làm tóc, hộp đêm, khách hàng có thể đến gặp họ nhiều lần hoặc bị người khác nhìn thấy, để lại manh mối.
Với một tia hy vọng, tổ công tác đã tiến hành điều tra cơ sở mại dâm của hai nạn nhân.
Đáng tiếc, họ đều là gái đứng đường cấp thấp.
Gái đứng đường gạ gẫm khách thường làm một mình, có khi trong một đêm kiếm được vài khách, chẳng ai thèm để ý đến họ và khách của họ.
Tuy nhiên, việc xác nhận nghề nghiệp của nạn nhân có thể giải thích được một số nghi vấn khác trước đó.
Tại sao hầu như tất cả các nạn nhân đều không chống cự khi họ bị hung thủ hãm hiếp lần đầu tiên?
Xem ra thủ phạm đã giả làm khách, hai bên giao dịch, cho nên nạn nhân đương nhiên sẽ không cự tuyệt. Sau đó kẻ sát nhân đột ngột ra tay, nạn nhân biết rằng tai họa sắp xảy ra, cố gắng chống cự thì đã quá muộn.
Tại sao nạn nhân đầu tiên lại chống cự trước khi bị cưỡng hiếp?
Cô ấy không phải là gái ngành, là người bình thường. Sau khi bị hung thủ tấn công, theo bản năng, cô đã chống trả ngay lập tức.
Khi điều tra 2 nạn nhân hành nghề mại dâm, lục soát danh sách khách hàng thân thiết của họ cũng là một công việc vô cùng “đáng sợ”. Lấy một nạn nhân làm ví dụ. Có tới 100 thông tin liên lạc khách trong sổ địa chỉ mà cô ấy đã để lại. Trong lúc tuyệt vọng, đội đặc nhiệm không còn cách nào khác là đến thăm từng người một. Họ nhận thấy có đủ mọi tầng lớp xã hội, từ cán bộ, giáo viên, thậm chí một số nhân viên tư pháp cho đến dân nhập cư, người bán hàng rong, nông dân.
Sau nhiều lần điều tra và xét nghiệm ADN, hơn 100 người đã được loại trừ khỏi diện tình nghi.
Vụ án tưởng chừng như đã rơi vào ngõ cụt lại có bước đột phá.
Việc xác định nghề nghiệp của nạn nhân vẫn đóng một vai trò quan trọng.
Cảnh sát tin rằng việc hung thủ lựa chọn gái ngành để phạm tội không phải là ngẫu nhiên, mà là sự lựa chọn kỹ lưỡng.
Mục đích của hung thủ khi chọn gái ngành chủ yếu là để giết họ cho chắc ăn và dễ dàng hơn. Điều này chứng tỏ hung thủ không mạnh, không có dễ chắc thắng kể cả khi đánh nhau với phụ nữ.
Tại Quảng Châu, nếu sử dụng các biện pháp bạo lực để tấn công, cưỡng hiếp phụ nữ, nạn nhân thường chống trả quyết liệt và kêu cứu, nếu không cẩn thận có thể bị bắt.
Vào năm 1992, phong tục ở Quảng Châu vẫn còn bảo thủ, không dễ để hung thủ dụ gái nhà lành đến một địa điểm nhất định.
An ninh ở Quảng Châu không tốt, các cô gái sống ở đây cũng cẩn trọng hơn và thường không nói chuyện với người lạ.
Rốt cuộc thì hung thủ chẳng thể đối phó được với những cô gái nhà lành, chọn một cô hành nghề mại dâm thì dễ hơn nhiều!
Họ thường không từ chối yêu cầu của khách hàng, ngay cả khi phải đến những nơi xa xôi. Vì là gái mại dâm nên hai bên phải có sự tiếp xúc gần, điều này cũng thuận lợi cho kẻ sát nhân để có thể bất ngờ tấn công họ. Họ bị đánh lén khi đang trong vòng tay của hung thủ, và thường chết trước khi họ kịp kêu cứu.
Vậy câu hỏi đặt ra là: nếu thủ phạm có thể quan hệ tình dục trực tiếp với họ, tại sao hắn lại muốn giết họ và thậm chí là phá hủy xác họ sau đó?
Lúc đầu, vì không có kinh nghiệm, nên cảnh sát Quảng Châu không thể làm rõ được điểm này.
Sau khi các chuyên gia của Bộ Công an can thiệp, họ mới tin rằng đây chính là bản chất của vụ án.
Đây là một trường hợp giết người của một kẻ biến thái.
Hung thủ giết người không phải để cướp tiền hay thỏa mãn tình dục mà là để trút bỏ gánh nặng tâm lý không bình thường.
Giết người, cưỡng hiếp và phá hủy xác sẽ khiến hắn cảm thấy sung sướng tột độ, sung sướng hơn rất nhiều so với việc làm tình với gái ngành.
Để xác định được tâm lý và tính cách của thủ phạm, các nhà điều tra tội phạm đã tốn rất nhiều công sức.
Những vụ án giết người biến thái như thế này hiếm thấy trong lịch sử Quảng Đông, lực lượng đặc nhiệm không có kinh nghiệm, chỉ có thể tra cứu những vụ án tương tự trên toàn quốc.
Vào tháng 7 năm 1992, Cục Công an Quảng Châu đã phát hiện ra một trường hợp tương tự ở Thâm Quyến.
Qua quá trình nghiên cứu liên tục những trường hợp như vậy, có thể khẳng định hung thủ là một kẻ tâm thần, mắc bệnh ái tử thi nghiêm trọng.
Kẻ mắc ái tử thi chủ yếu là người nhu nhược và bất tài. Loại người này có một loại ham muốn mạnh mẽ trong việc chi phối quan hệ tình dục của họ, và việc thỏa mãn ham muốn này chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc thỏa mãn tình dục của hắn. Xác chết sẽ không bao giờ chống lại mệnh lệnh của hắn, vì vậy hắn thà chọn xác chết làm đối tượng giao cấu. Trong đời thực, hắn có thể là một người thất bại.
Hắn không thể kiểm soát được thế giới của người sống nên quay sang thế giới của người chết. Trước mặt người chết, hắn dường như là một kẻ thống trị đầy quyền lực, những xác chết cúi đầu trước hắn và sẽ không từ chối yêu cầu của hắn hoặc cười nhạo sự bất tài của hắn. Nói tóm lại, hắn ở thế thống trị trong quan hệ này, hắn không phải lo lắng về sự thất bại của bản thân. Kẻ mắc ái tử thi thường đi kèm với bệnh tâm thần rõ ràng.
————————-Còn tiếp —————————