Nữ nhân cao quý không phải ở vẻ bề ngoài, không phải ở xuất thân, cũng không phải ở địa vị, mà là ở sự cao quý từ trong tâm. Một người phụ nữ có thể không xinh đẹp, không mỹ lệ, thậm chí thiếu một chút khí chất, nhưng không thể không có giáo dưỡng.
Giáo dưỡng là một loại phẩm chất có tính ẩn, kín đáo. Nó không trực tiếp thu hút ánh mắt nhìn của người khác nhưng lại có sức tỏa sáng vô cùng mạnh mẽ. Trong cuộc sống, không phải chỉ ở phạm vi gia đình mà ở phạm vi xã hội đều rất cần những người phụ nữ có giáo dưỡng.
Thời cổ đại, “khiêm khiêm quân tử” là cách hình dung về một người đàn ông có giáo dưỡng, còn “ôn nhuận như ngọc” là cách hình dung về một người phụ nữ có giáo dưỡng. Theo quan điểm của cổ nhân, nữ nhân chân chính có giáo dưỡng phải có một phần nhu tình (thùy mị, dịu dàng, tình cảm), hai phần tao nhã, ba phần nhu hòa kín đáo và bốn phần trí tuệ.
“Nhu tình” của người phụ nữ đến từ tình yêu thương, sự thiện giải ý nguyện của người khác, cảm thụ được tâm ý của người khác. Người phụ nữ “nhu tình” giống như nước vậy, có thể giúp cho cây cối sinh trưởng tươi tốt mà lại không một chút đòi hỏi sự báo đáp.
“Tao nhã” của người phụ nữ đến từ sự khoan dung, tự tin, sự thống nhất giữa vẻ đẹp nội tâm bên trong và dung mạo bên ngoài. Lòng khoan dung của người phụ nữ giống như đại địa rộng lớn, có thể nâng đỡ chất chứa vạn vật. Phụ nữ tao nhã biết thuận theo tự nhiên, tâm thái bình ổn, ít vọng tưởng mông lung. Nhờ những đức tính này họ có thể “biến phức tạp thành đơn giản”, cuộc sống luôn an hòa, dồi dào sức sống. Nhìn họ lúc nào cũng có phong thái ung dung, tự tại.
Sự “nhu hòa, kín đáo” đến từ tâm sinh lý vốn có của người phụ nữ. Phụ nữ vốn mang tính âm, nên luôn ẩn mình mà không lộ liễu. Trước hết nó thể hiện về mặt trang phục. Trang phục của người phụ nữ nhất định không nên quá hở hang, tốt nhất là kín đáo. Đàn ông đối ứng với trời, phụ nữ đối ứng với đất. Người phụ nữ có thể ẩn mình là người phụ nữ có nội tâm vững vàng, thận trọng và rất sâu sắc.
“Trí tuệ” của người phụ nữ đến từ học tập, thể ngộ của bản thân, sự tu dưỡng không ngừng, không mệt mỏi mà có được. “Trí tuệ” ở đây không đơn thuần chỉ là những tri thức trong sách vở mà còn là sự vận dụng những tinh hoa, đạo đức truyền thống trong cách đối nhân xử thế. Người có sắc thân không thanh tịnh, nhiều ý nghĩ dâm dục thì rất khó để khai phát ra trí tuệ.
Người phụ nữ có giáo dưỡng đối xử tốt với cả bản thân mình và mọi người, chân thành lắng nghe người khác, thực tâm cảm thụ người khác, tôn trọng người khác chính. Họ có thể “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mà mình không muốn thì cũng không làm cho người khác).
Một người phụ nữ muốn trở thành người có giáo dưỡng cần phải dụng tâm hiểu và hành theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống, những lời dạy của cổ nhân. Đó là sự kết tinh từ quá trình tu dưỡng lâu dài, không phải điều dễ dàng là có được. Một người phụ nữ luôn biết trau dồi tri thức, học từ cuộc sống cũng như sách vở và tinh hoa kim cổ, mở mang tri thức sẽ hiểu được ý nghĩa nhân sinh. Từ đó bản thân họ dần dần được hoàn thiện, tâm cảnh thăng hoa và hiểu được Đạo, hiểu được nhiều điều kỳ diệu.
Rất nhiều phụ nữ nhìn qua thập phần xinh đẹp nhưng hành vi, lời nói của họ lại có phần thô lỗ. Những người như vậy chỉ có thể được người khác nhìn từ xa mà không dám tới gần. Thậm chí hành vi, lời nói của họ còn khiến người khác sinh ra tâm chán ghét. Trái lại, một người phụ nữ dù có dung mạo bình thường nhưng lời nói, cử chỉ chứa đựng sự tu dưỡng thường thường chiếm được cảm tình từ người khác.
Người phụ nữ có giáo dưỡng giống như hoa lan mọc ở trong núi sâu, hễ nở là tỏa hương thơm ngát. Phụ nữ có giáo dưỡng giống như tiếng nước suối chảy róc rách, làm cho những người xung quanh thư thái và tĩnh tại.
Thời gian có thể xóa dần đi nhan sắc của người phụ nữ nhưng không thể làm phai mờ sự giáo dưỡng của người phụ nữ. Họ sẽ ngày càng thâm sâu hơn, ngày càng cao quý hơn, ngày càng cuốn hút hơn.