VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN (Lời dẫn: thấy mọi ng có vẻ hào hứng với Champa nên …

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN

VIỆT CHIÊM TRƯỜNG TRẬN TÂN BIÊN
(Lời dẫn: thấy mọi ng có vẻ hào hứng với Champa nên em post bài này với mục đích đú trend, cách đây khoảng 3-4 năm em bắt đầu viết về các cuộc chiến tranh giữa Việt và Chiêm, thời gian gần đây em có tập hợp và biên sửa lại, xin đưa lên để dc các cao nhân chỉ điểm, thank! à, mà, ko biết vì sao, em lại có hứng thú với những cái tiểu tiết, vì thế nếu các bác cho là nó quá vụn vặt thì đại xá cho)
(B.8)
Việt sử lược chép: “Đinh Hợi [1047] Chiêm Thành tới cống, vua xuống chiếu đày sứ giả của nó lên châu Chân Đăng, lấy cớ vua nó là Ung Ni (雍尼) vô lễ [bất cung] Ất Mùi [1055] Chiêm Thành tới cống (…) Đinh Dậu [1057] Chiêm Thành tới cống (…) Kỷ Hợi [1059] Chiêm Thành tới cống (…) Canh Tí [1060] Chiêm Thành tới cống (…) Quý Mão [1063] Chiêm Thành tới cống (…) Ất Tị [1065] Chiêm Thành tới cống một con tê trắng”.
Toàn thư chép: “Canh Dần [1050] Mùa xuân tháng 3, Chiêm Thành dâng voi trắng”.
— Lần sứ Chiêm Thành sang Đại Việt cống năm 1047 như ghi chép trong Việt sử lược cho biết: Quốc vương Champa tên là Ung Ni và Thái Tông triều Lý đã đày sứ Champa lên Đăng Châu do Ung Ni không tôn trọng, tôn kính. Nhưng không tôn kính ở chỗ nào ?
— Sau chiến thắng tại sông Ngũ Bồ, hẳn Thái Tông cũng nắm được tình hình Phật Thệ, tháng 7/1044 quân phương bắc tiến vào thành mà không gặp sự chống cự nào, tháng 8/1044 Thái Tông rút quân. Trong thời gian chiếm giữ thành Phật Thệ, Việt sử lược cho biết Lý Thái Tông bắt tù các bà vợ và cung nữ của vua Sạ Đẩu, trong khi Toàn thư chép thêm 2 sự kiện đó là “sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng, các quan chúc mừng thắng lợi”.
— Nguyên văn được chép trong Toàn thư là “Khiển sứ biến hành hương ấp phủ luận khiển dân”. Trước hết chúng ta thấy rằng: có những người Chiêm Thành phục vụ dưới quyền của Lý Thái Tông như các sứ giả được gửi đến các hương ấp để phủ dụ, bàn luận, sai khiến dân chúng. Sau cùng Lý Thái Tông không muốn cai trị Chiêm Thành, cũng như không có mưu đồ đóng quân lâu dài tại Vijaya, vậy thì vì sao ngài ấy lại cho sứ đi đến các hương ấp để vỗ về người Champa, trong khi với lực lượng quân sự mạnh vượt trội, người phương bắc hoàn toàn có thể chống trả bất cứ cuộc tấn công nào từ phía người Chiêm.
— Xem tên gọi vị vua Champa sai sứ cống năm 1047. Chữ 雍 (Ung) có một nghĩa là Hòa Hợp và một nghĩa khác là Ôm Giữ. Chữ 尼 với âm Ni có nghĩa là Sư Nữ, với âm Nật có nghĩa là Thân Gần, với âm Nệ có nghĩa là Ngăn Cản. Dựa vào tình trạng cống sứ cho phép chúng ta phỏng đoán, người Việt gọi chúa Chiêm Thành là Ung Nật (hòa hợp thân gần).
— Tôi cho rằng: Sau trận Ngũ Bồ quân phương bắc tiến vào chiếm giữ thành Phật Thệ, đồng thời chấp thuận cho Ung Nật lên ngôi vị Rajadiraja (vua của các vua). Để tạo uy tín cho chính quyền của Ung Nật, Lý Thái Tông đã ban lệnh không được tàn phá, giết hại, cướp bóc người Chiêm Thành, đồng thời sai sứ giả đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng quy thuận chính quyền mới tại Phật Thệ. Cuối cùng, khi chiến dịch hoàn toàn thắng lợi, Lý Thái Tông rút quân về bắc, mang theo những người vợ và cung nữ của chúa Chiêm là Sạ Đẩu, cùng nhiều vàng bác châu báu. Trước khi rút quân, vua nhà Lý có những thỏa thuận với chúa Ung Nật, nhưng vì lý do nào đó, mà Phật Thệ đã không làm đúng đủ giao kèo, do đó Thái Tông triều Lý cho rằng Ung Nật không tôn kính nên đã đày sứ giả sang cống năm 1047 lên Đăng Châu.
Sách Vương quốc Champa của Pièrre-Bernard Lafont viết: “Một vị quốc vương mới của Champa mà người ta không biết rõ nguồn gốc, đã lên ngôi tại Vijaya vào năm 1044, vị vua đầu tiên của triều đại này là Jaya Paramesvaravarman I. Ngay từ lúc nhận vương phong là Rajadiraja (vua của các vua) Jaya Paramesvaravarman I phải đương đầu với sự chống đối của Panduranga, không công nhận ông ta là thủ lĩnh của liên bang Champa, vì tiều quốc này đã chọn một hoàng tử có xuất thân từ miền nam lên làm vua vương quốc. Vị hoàng tử nối ngôi nhận lệnh đem quân sang miền nam dẹp loạn vào năm 1050”.
Tống sử chép: “Tháng giêng năm Hoàng Hữu thứ hai (1050) lại sai Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc sang cống ngà voi hai trăm lẻ một cây, sừng tê bảy mươi chín cây”.
Tống hội yếu tập cảo chép: “Tháng giêng năm Hoàng Hữu thứ hai (1050) Quốc chủ Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc cống ngà voi hai trăm lẻ một cây, sừng tê giác bảy mươi chín cây”.
— Xem Tống sử thấy rằng mỗi khi Chiêm Thành có quốc vương mới, thì sử quan phương bắc sẽ chép lại rất rõ tên xưng của vị quốc vương đó trong lần sứ sang đầu tiên. Sau sự kiện Lý Thái Tông đánh Chiêm Thành chém chúa Sạ Đẩu năm 1044 thì lần sứ của Chiêm Thành sang Tống năm 1050 là lần đầu của triều đại mới, do đó có thể xác định Tống hội yếu đã ghi chép chính xác, Câu Xá Lị Ba Vi Thu La Bà Ma Đề Dương Bốc là Quốc vương của Chiêm Thành và rất có thể tên Phạn là Jaya Paramesvaravarman, tên Việt là Ung Nật.
— Tiểu quốc Panduranga [Phan Rang] ở cực nam vương quốc Champa không bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc nam chinh như các tiểu quốc khác, nên sau khi quân phương bắc rút, họ đã đưa một hoàng tử có xuất thân từ miền nam lên làm vua của vương quốc Chiêm Thành. Năm 1050 vua Paramesvaravarman cử người con của em gái là Yuvaraja đem quân đánh Panduranga, theo như mô tả thì dân cư của Panduranga là những kẻ hư hỏng, hung dữ, ngu dốt và luôn nổi loạn chống quốc vương.
(C.9)
Tống sử chép: “Tháng 9 năm thứ sáu [1061] (Chiêm Thành) lại cống voi nhà. Tháng giêng năm thứ bảy [1062] Tháng 5 thì sứ nước ấy là Đốn Bà Ni tới cống phương vật. Tháng 6 ban tặng cho quốc vương Thi Lí Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ (施里律茶槃麻常楊溥) một con bạch mã. Hi Ninh nguyên niên [1068] Quốc vương là Dương Bốc Thi Lị Luật Đà Bàn Ma Đề Bà (楊卜尸利律陀般摩提婆) sai sứ cống phương vật, xin được mua ngựa trạm”.
Tống hội yếu tập cảo chép: “Nguyên tác Luật Luật, cứ Tống sử quyển tứ bát cửu san”.
— Xem Tống sử thì thấy trong lần sứ tháng 9/1061 không thấy chép tên của quốc vương Chiêm Thành nên có khả năng người sai sứ sang phương bắc cống nạp là Paramesvaravarman. Năm sau 1062, tên gọi của vị quốc vương Chiêm Thành đã được chép lại và khoảng thời gian đi sứ của Chiêm Thành sang phương bắc thực sự là gây chú ý, cụ thể tháng 9/1061 và tháng 1/1062, chỉ cách nhau có 6 tháng, việc này cho phép phỏng đoán thời điểm Ung Nật mất khá gần tháng 9/1061.
— Xem ghi chép của Tống hội yếu thì thấy sách ấy viết về năm cống 1062 và năm cống 1068 có cấu trúc giống nhau gồm: Sứ Chiêm Thành (chép rõ tên sứ) sang cống và Chiếu ban cho quốc vương (chép rõ tên gọi). Tống sử chép sai khác, cụ thể cấu trúc ghi chép của năm sứ 1062 giống với Tống hội yếu, trong khi cấu trúc của năm sứ 1068 không giống với Tống hội yếu, cụ thể cấu trúc trong Tống sử là Quốc vương Chiêm Thành (chép rõ tên xưng) sai sứ sang cống và Chiếu ban cho. Rõ ràng là năm sứ 1068 cấu trúc giữa Tống sử và Tống hội yếu đã ngược nhau.
— Lại thấy cấu trúc mà Tống sử dùng để chép về năm sứ 1068 trở nên rất phổ biến trong Chiêm Thành truyện và thường được sử dụng để chép việc vị quốc vương mới của Chiêm Thành khi lần đầu tiên sai sứ sang cống thiên triều, do vậy tôi cho rằng: Dương Bốc Thi Lị Luật Đà Bàn Ma Đề Bà là Rudravarman và năm 1068 là lần đầu ngài sai sứ sang Đại Tống, cũng có nghĩa Thi Lí Luật Luật Trà Bàn Ma Thường Dương Phổ là Bhadravarman.
Sách Ancient Indian Colonies In The Far East của Ramesh Chandra Majumdar viết: “Vua Rudravarman, thuộc gia đình quý tộc và thế lực của Sri Paramesvara và là em trai của Sri Bhadravarman” [Số thứ tự 60. Chữ khắc tại ngôi đền Po-Nagar về Rudravarman]
Sách Le Royaume De Champa của M. Georges Maspero viết: “Người kế vị của Jaya Paramesvaravarman I là Bhadravarman III, chỉ được biết đến thông qua người em trai của ngài Rudravarman III. Ngài lên ngôi năm 1060 hoặc đầu năm 1061 và đã gửi cống nạp tới hoáng đế Trung Hoa voi nhà. Cuối năm [1061] chứng kiến sự xuất hiện của Rudravarman III, người có lẽ không lạ gì với sự mất tích của anh trai mình”.
— Theo bia ký tại ngôi đền Po-Nagar thì năm 1064 thuộc thời gian trị vì của Chế Củ và như thế người anh trai của ngài là Bhadravarman trị vì từ (sớm lắm là giữa) năm 1061 đến (muộn lắm là giữa) năm 1063.
Tống sử chép: “Tháng giêng năm thứ bảy [1062] Quảng Tây an phủ kinh lược ti tâu: Chiêm Lạp vốn không tập luyện việc binh, lân cận với Giao Chỉ, thường khổ vì bị xâm nhiễu, còn Chiêm Thành gần đây cũng sửa sang võ bị, để chống Giao Chỉ, sắp từ lối Quảng Đông vào kinh sư dâng cống, mong được ân sủng vỗ về”.
Toàn thư chép: “Mậu Thân [1068] Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới”.
— Rõ ràng những người kế nhiệm Ung Nật có xu hướng kháng Giao Chỉ. Từ lần cống năm 1062, người Chiêm đã cho Tống triều biết ý chí cũng như sự chuẩn bị của họ trong việc kháng Giao Chỉ và tất nhiên họ đề nghị sự giúp đỡ từ phía thiên triều.
Toàn thư cho biết “Kỷ Dậu [1069] Mùa xuân tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Mùa hạ tháng 6 đem quân về. Mùa thu tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu (…) Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước”.
— Chi tiết cuộc nam chinh năm 1069 xin xem sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn.
— Ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý về danh nghĩa thuộc Chiêm Thành nhưng trên thực tế thuộc kiểm soát của người Việt, sau sự kiện dâng 3 châu của Chế Củ vào tháng 7/1069 thì hoàn toàn thuộc về Đại Việt.
— Lý Thánh Tông đã đánh thắng người Chiêm, hoàn toàn có thể thu 3 châu Địa Ma Bố vào cương thổ Đại Việt, nhưng phương bắc lại thả Chế Củ. Rõ ràng cái mà Thánh Tông muốn là một chính thể tại phương nam thân với Thăng Long và không lựa chọn nào tốt hơn vị chúa đã bị Thăng Long đánh bại. Chế Củ còn đủ thế lực và danh vọng để kiểm soát Chiêm Thành nhưng lại không đủ nhuệ khí để gây chiến lại với Đại Việt. Nếu Chế Củ tại vị thì 3 châu Địa Ma Bố thuộc về Đại Việt theo cách chính danh, nhưng nếu chính thể chống đối với Thăng Long nắm quyền điều hành Chiêm Thành thì người Việt chẳng qua chỉ là kẻ cướp đất của Champa và hoàn toàn có thể dâng tấu tố lên thiên triều. Rõ ràng Lý Thánh Tông đã tính toán rất kỹ.
(C.10)
Sách Le Royaume De Champa của Maspero viết: “Rudravarman bị bắt, đất nước rơi vào nội chiến, trên tất cả các lãnh địa, hơn mười lãnh chúa tuyên bố độc lập và tự xưng vua, sau đó tham gia xâm chiếm và áp đặt quyền lực lên các đối thủ”.
Việt sử lược chép: “Nhâm Tí [1072] Mùa xuân tháng giêng, vua bị bệnh nặng mất ở điện Hội Tiên (…) Quý Sửu [1073] Nước Chiêm Thành tới cống”.
Toàn thư chép: “Quý Sửu [1073] Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng”.
— Chế Củ trở về Chiêm Thành với sự đồng thuận của Thăng Long nên thời gian đầu tình hình chưa đến mức tồi tệ. Vào năm 1072 khi Lý Thánh Tông băng hà, các thế lực bất phục thành Phật Thệ nổi dậy, cuộc nội chiến trở nên nghiêm trọng.
— Nhận thấy tình hình Phật Thệ khó mà kiểm soát, trong lần đi sứ năm 1073, Chiêm Thành trước là mừng Càn Đức lên ngôi, sau là báo tin cho Thăng Long biết. Để trợ uy cho Chế Củ và cũng là phòng biến loạn từ phía nam, Lý triều cử thái sư Lý Đạo Thành vào coi châu Nghệ An. Để nhắc nhở người Chiêm về cuộc chiến năm 1069, Tả gián nghị đại phu đã cho dựng vị hiệu của Thánh Tông.
Sách Vương quốc Champa của Lafont viết: “Nhờ một bi ký Mỹ Sơn bằng Phạn ngữ và Chăm ngữ mà người ta được biết có hai vị hoàng tử không biết thuộc về dòng tộc nào, tên là Thang và Pang tìm cách chấm dứt tình trạng hỗn loạn (…) Năm 1074 hoàng tử Thang lên nắm chính quyền (…) ông ta tự phong vương cho mình với danh hiệu là Harivarman IV”.
Tống sử chép: “Năm thứ 7 [1074] Lý Càn Đức ở Giao Châu tâu, vua Chiêm Thành đem ba ngàn quân cùng vợ con đến hàng, tháng giêng thì tới bản đạo”.
Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư nhà Lý nước Đại Việt viết: “Hoàn vương Xạ Chế lìa cung thất đến cửa khuyết xưng thần”.
— Thế nhưng chính thể do Chế Củ thành lập đã không kiểm soát được tình trạng nội chiến tại Chiêm Thành và ngài buộc phải đưa gia đình và 3 ngàn quân sang nương trú Đại Việt vào tháng giêng năm 1074.
Toàn thư chép: “Giáp Dần [1074] Chiêm Thành lại quấy rối biên giới. Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự”.
— Theo như ghi chép của Toàn thư thì mùa xuân năm 1074 Chiêm Thành lại quấy rối [Chiêm Thành phục nhiễu biên] Như vậy trước đây Chiêm Thành đã từng quấy nhiễu vùng biên giới, do Toàn thư không chép rõ tháng nên có thể vào tháng giêng, khi Chế Củ chạy sang Thăng Long đã bị các thế lực chống đối truy kích, khiến vùng biên giới trở nên căng thẳng.
— Để thể hiện rõ thái độ Lý triều thăng Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Có thể Thăng Long cũng đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh quy mô.
Toàn thư chép: “Ất Mão [1075] Sai Lý Thường Kiệt thống lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Cho Thường Kiệt làm Thái úy”.
Ghi chú 12 trong sách Lý Thường Kiệt. Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý của học giả Hoàng Xuân Hãn viết: “Toàn thư chép việc đánh Chiêm-thành vào tháng 8 năm 1075. Việt sử lược không chép việc ấy. Đại-Việt sử-ký (Nguyễn Tây Sơn) cho ta biết rằng sách Việt-sử bi-lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm 1076. Chép như thế mới đúng lý”.
— Sự kiện Lý Thường Kiệt đem binh đánh Chiêm Thành vào tháng 8 năm 1076 (mà Toàn thư chép nhầm là năm 1075) chỉ là một cuộc thị uy sức mạnh quân sự mà thôi.
— Vì từ tháng 5/1076 Đại Tống đã có những động thái quân sự với mục đích phản công Đại Việt đã tấn công 3 châu Ung Khâm Liêm trước đó. Nếu để xảy ra cuộc chiến với 7 ngàn quân của Chiêm Thành thì hao tổn quân sự không phải nhỏ, lại tốn thêm nhiều thời gian, tất sự chuẩn bị cho cuộc chống Tống sẽ kém đi.
— Sự kiện Lý Thường Kiệt họa bản đồ 3 châu và đổi 2 châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, cũng như chiêu mộ dân chúng đến ở, cho thấy 3 châu phía bắc vùng Bình Trị Thiên thuộc Đại Việt cả trên danh nghĩa và thực tế.
Tống sử chép: “Năm Nguyên Hựu thứ bảy [1092] Chiêm Thành lại dâng biểu nói, nếu thiên triều đánh Giao Chỉ thì xin được xuất binh đánh úp”.
Toàn thư chép: “Giáp Tuất [1094] Mùa xuân tháng giêng, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống”.
— Theo như ghi chép của Việt sử lược thì các năm 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1087, 1089, 1091 sứ Chiêm Thành sang cống. Tống sử cho biết năm 1092 sứ Chiêm Thành tấu luôn sẵn sàng đánh úp Giao Chỉ.
— Chiêm Thành tỏ rõ thái độ kháng Giao Châu nên năm 1092 và 1093 bỏ cống, vì thế mùa xuân năm 1094 Thăng Long sai hàn lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống, thấy rằng không thể cương với Giao Châu nên vào mùa thu năm 1094 sứ Chiêm Thành sang cống.
(Chế An)


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *