Việc để cho tôn giáo giải nghĩa thế giới tự nhiên là một sai lầm

Việc để cho tôn giáo giải nghĩa thế giới tự nhiên là một sai lầm. Tôn giáo vốn là một thứ ảo tưởng – nhưng là ảo tưởng theo một cách hữu ích. Sự ảo tưởng của nó giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc lo lắng, căng thẳng và trầm cảm.
Tôn giáo không giúp chúng ta trong việc giải nghĩa tự nhiên. Nó đã làm những gì có thể làm trong thời kỳ tiền khoa học, nhưng công việc ấy đã bị loại bỏ hoàn toàn bởi khoa học. Hầu hết các tín đồ tôn giáo và thậm chí ngay cả các giáo sĩ cũng đồng ý rằng: Giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố vào năm 1996 rằng thuyết tiến hoá là sự thật và những người Công giáo nên chấp nhận nó. Không thể bàn cãi rằng một số tư duy phản khoa học cực đoan vẫn còn tồn tại ở những nơi như Bảo tàng Sự sáng tạo Ken Ham ở Kentucky, nhưng đó chỉ là số ít. Hầu hết những người theo tôn giáo chính thống đều thừa nhận phiên bản phân công lao động (division of labour) của Galilleo: “Ý định của Đức Thánh Linh là muốn truyền bảo chúng ta cách một người lên Thiên Đàng, chứ không phải Thiên Đàng đi như thế nào”
Vậy thì, có lẽ, cái cốt lõi của tôn giáo không phải là khả năng giải nghĩa tự nhiên, mà là sức mạnh đạo đức của nó chăng? Sigmund Freud, người mà tự coi mình là “người Do Thái vô thần”, đã coi tôn giáo như một thứ ảo tưởng, nhưng lại thật hữu ích. Ông lập luận rằng loài người chúng ta về bản chất là những sinh vật khủng khiếp – những con sói hung hăng và ái kỷ. Nếu như được buông thả hoàn toàn, chúng ta sẽ hãm hiếp, cướp bóc và phá huỷ cuộc đời mình. May mắn thay, chúng ta đã có sự ảnh hưởng văn minh của tôn giáo để hướng bước chân ta tới lòng bác ái, lòng trắc ẩn và sự chung sức bằng thứ hệ thống cây gậy và củ cà rốt, hay còn được biết tới là thiên đường và địa ngục.
Mặt khác, nhà xã hội học người Pháp Émile Durkheim đã lập luận trong The Elementary Forms of the Religious Life (1912) rằng cốt lõi của tôn giáo không nằm ở hệ thống niềm tin hay thậm chí là quy tắc đạo đức của nó, mà ở khả năng tạo ra sự sôi sục tập thể (collective effervesence): những kinh nghiệm chung và mãnh liệt hợp nhất các cá thể thành các nhóm xã hội hợp tác với nhau. Durkheim lập luận rằng tôn giáo là một loại chất kết dính xã hội, một quan điểm đã được khẳng định bởi nghiên cứu liên ngành gần đây.
Trong khi Freud và Durkheim đã đúng về các chức năng quan trọng của tôn giáo, thì giá trị thực sự của nó nằm ở khả năng trị liệu, đặc biệt là khả năng kiểm soát cảm xúc của chúng ta. Cách ta cảm nhận cũng quan trọng đối với sự sống còn của ta hệt như cách ta suy nghĩ. Giống loài của chúng ta được trang bị với những cảm xúc mang tính thích nghi, chẳng hạn như sợ hãi, nổi giận, ham muốn, vv: tôn giáo đã (và đang) là hệ thống văn hoá điều chỉnh những cảm xúc và hành vi này lên hoặc xuống. Ta có thể thấy rõ điều này nếu quan sát tôn giáo chính thống, thay vì các hình thức cực đoan có hại. Tôn giáo chính thống xoa dịu sự lo lắng, căng thẳng và trầm cảm. Nó mang đến ý nghĩa hiện sinh và hy vọng. Nó tích tụ sự hung hăng và sợ hãi để chống lại kẻ thù. Nó thuần hoá dục vọng và cũng cố mối quan hệ hiếu thuận. Thông qua những câu chuyện, nó rèn giũa lòng đồng cảm và trắc ẩn dành cho kẻ khác. Và nó cũng mang đến sự an ủi cho những kẻ khổ đau.
Liệu pháp cảm xúc là thứ cốt lõi sinh động của tôn giáo. Liên kết xã hội xảy ra không chỉ khi chúng ta cùng đồng thuận tôn thờ một vật tổ, mà còn khi chúng ta cảm thấy yêu mến nhau. Một cộng đồng tình cảm biết quan tâm săn sóc nhau xuất hiện khi các nhóm chia sẻ các nghi lễ, phụng vụ, khúc hát, điệu múa, ăn uống, đau buồn, an ủi, những sự tích về các vị thánh và anh hùng, những thử thách như ăn chay hay hi sinh. Để so sánh thì niềm tin thần học là một sự trừu tượng không đổ máu.
Quản lý cảm xúc rất quan trọng vì cuộc sống vốn khó khăn. Phật dạy: “Đời là bể khổ” và hầu hết chúng ta khi đã đi qua một chặng nhất định trong đời đều sẽ đồng ý. Tôn giáo phát triển là để xử lý cái mà tôi gọi là “vấn đề dễ bị tổn thương”. Khi ta đau ốm, ta đi gặp bác sĩ chứ không phải linh mục. Nhưng khi con của chúng ta chết, hay khi ta mất nhà trong một vụ hỏa hoạn, hoặc chúng ta được chẩn đoán mắc bệnh ung thư Giai đoạn 4, thì khi ấy tôn giáo lại hữu ích vì nó mang lại sự nhẹ lòng và sức mạnh. Nó cũng để cho chúng ta một cái gì đó để làm, khi chúng ta chẳng thể làm gì.
Hãy xem tôn giáo giúp người ta như thế nào sau khi chết. Các loài động vật có vú sống theo bầy đàn đã từng bị đau khổ vì chia ly sẽ được phục hồi sức khỏe bằng cách chạm, cho ăn tập thể và chải lông. Phong tục đau buồn của loài người cũng có những cơ chế xã hội xoa dịu tương tự. Chúng ta an ủi và ôm hôn một người đã mất đi người thân. Thân xác của chúng ta mang lại sự an ủi cổ xưa trực tiếp cho thân xác đang đau buồn. Chúng ta mang thức ăn và đồ uống đến cho tang quyến, và chúng ta còn bẻ bánh với họ (hãy nghĩ về truyền thống shiva của người Do Thái, hoặc truyền thống thăm viếng sau khi người nhà thức canh người chết ở nhiều nền văn hóa). Chúng ta chia sẻ những câu chuyện về người thân yêu và giúp tang quyến điều chỉnh lại nỗi đau của họ bằng những câu chuyện lạc quan hơn. Thậm chí ngay cả âm nhạc, dưới hình thức của những giai điệu an ủi cùng hoà ca, cũng giúp bày tỏ niềm tiếc thương chung và biến nó từ một trải nghiệm cô đơn không thể chịu đựng nổi thành một trải nghiệm chung có thể chịu đựng được.
Tôn giáo cũng giúp chế ngự nỗi buồn bằng một thứ mà tôi sẽ gọi là ‘sự định hình hiện sinh’ hay chính xác hơn là ‘nợ hiện sinh’. Người phương Tây thường nghĩ mình là một cá nhân trước rồi sau đó mới là thành viên của cộng đồng, nhưng hệ tư tưởng của chúng ta về một nhân vật chính đơn độc hoàn thành sứ mệnh cá nhân lại mang tính hư cấu hơn là thực tế. Mất đi một ai đó nhắc nhở chúng ta về sự phụ thuộc vào người khác và sự tổn thương sâu sắc của chúng ta, và vào những lúc như vậy, tôn giáo hướng chúng ta đến mạng lưới các mối quan hệ hơn là tránh xa nó. Ví dụ, rất lâu sau khi cha mẹ bạn qua đời, tôn giáo giúp bạn tưởng nhớ họ và nhắc nhở món nợ hiện sinh của bạn đối với họ. Việc nghi thức hoá việc tưởng nhớ người đã khuất, thông qua các nghi thức tang lễ, hoặc lễ tảo mộ (Qingming) ở châu Á, hoặc Ngày của người chết ở Mexico, hoặc các thánh lễ danh dự hàng năm trong Công giáo, là điều quan trọng vì nó luôn nhắc nhở chúng ta, thậm chí là thông qua nỗi đau, về sức ảnh hưởng đầy ý nghĩa của những người thân yêu đã qua đời này. Đây không phải là sự tự lừa dối bản thân về tính phi thực tế của cái chết, mà là một cách khéo léo để học cách chung sống với nó. Nỗi đau buồn được chuyển hóa trong sự thừa nhận chân thành về giá trị của người thân yêu, và các nghi lễ tôn giáo giúp mọi người dành thời gian và không gian tinh thần cho sự thừa nhận đó.
Một cảm xúc như đau buồn có nhiều phần hợp thành. Sự kích thích về mặt sinh lý của nỗi đau buồn đi kèm với những đánh giá về mặt nhận thức: ‘Tôi sẽ không bao giờ gặp lại bạn mình nữa’, ‘Tôi đã có thể làm gì đó để ngăn chặn điều này’; ‘Em ấy là tình yêu của đời tôi’, và cứ vậy. Các tôn giáo cố gắng cung cấp cho tang quyến một sự đánh giá thay thế (alternative appraisal) nhằm điều chỉnh lại bi kịch của họ như một thứ gì đó không chỉ là mỗi đau khổ. Theo các nhà tâm lý học Phoebe Ellsworth tại Đại học Michigan và Klaus Scherer tại Đại học Geneva, việc đánh giá cảm xúc là hành vi chủ động, vượt quá thảm hoạ trước mắt để hình dung ra các giải pháp hoặc phản ứng khả thi. Điều này được gọi là ‘đánh giá thứ cấp’ (secondary appraisal). Sau lần đánh giá sơ bộ (‘Điều này thật buồn’), lần đánh giá thứ cấp đánh giá khả năng của chúng ta trong việc đối phó với tình huống: ‘Điều này quá sức đối với tôi’ – hoặc, một cách tích cực: ‘Tôi sẽ vượt qua chuyện này’. Một phần trong khả năng ứng phó với sự đau khổ của chúng ta là ý thức về quyền lực hoặc quyền tự quyết: quyền lực nhiều hơn thường có nghĩa là khả năng đối phó tốt hơn. Nếu như tôi thừa nhận những hạn chế của mình khi đối mặt với mất mát không thể tránh khỏi, nhưng tôi cảm thấy rằng người đồng minh mạnh mẽ, Đức Chúa Trời, là một phần quyền năng hoặc quyền tự quyết của tôi, vậy thì tôi sẽ có thể kiên cường hơn.
Do các hành vi tôn giáo thường đi kèm với suy nghĩ kỳ diệu ma thuật hoặc niềm tin vào siêu nhiên, Christopher Hitchens đã lập luận trong God Is Not Great (2007) rằng tôn giáo là ‘sự an ủi giả tạo’. Nhiều nhà phê bình tôn giáo đã lặp lại lời lên án của ông. Nhưng nào có cái gọi là an ủi giả tạo. Hitchens và các nhà phê bình đồng nghiệp đang phạm sai lầm về phạm trù, chẳng hạn như nói: ‘Màu xanh lá cây dễ gây buồn ngủ’. Sự an ủi hay thoải mái là một CẢM GIÁC, và cảm giác thì có thể mãnh liệt hay yếu ớt, nhưng nó đâu thể sai hay đúng được. Bạn có thể SAI khi ĐÁNH GIÁ lý do TẠI SAO bạn cảm thấy tốt hơn, nhưng CẢM THẤY TỐT HƠN thì chẳng đúng cũng chẳng sai. Đúng và sai chỉ áp dụng nếu chúng ta đang đánh giá xem liệu các mệnh đề của mình có đúng với thực tế hay không. Và chắc chắn nhiều tuyên bố thực tế của tôn giáo là sai theo cách đó – thế giới không được tạo ra trong sáu ngày.
Tôn giáo là niềm an ủi thực sự, cũng giống như âm nhạc là niềm an ủi thực sự vậy. Chẳng ai nghĩ rằng niềm vui khi xem vở opera Cây sáo thần của Mozart là ‘niềm vui giả tạo’ vì tiếng sáo không thực sự tồn tại. Nó không cần phải đúng với thực tế. Đúng là một số tín đồ tôn giáo, không như tín đồ âm nhạc, đặt niềm an ủi của họ vào những tuyên bố siêu hình bổ sung, nhưng tại sao chúng ta lại cần phải tin tưởng họ để biết cách hoạt động của tôn giáo cơ chứ? Những tín đồ như vậy không nhận ra rằng các nghi lễ tôn giáo và hoạt động xã hội vô ý của họ là nguồn gốc thực sự của việc họ được chữa lành. Trong khi đó, Hitchens và các nhà phê bình khác đã nhầm lẫn giữa những thất vọng thực tế về tôn giáo với giá trị của tôn giáo nói chung, và do đó bỏ sót cái cốt lõi của nó.


Bản thân thuật ngữ “tôn giáo” vốn đã rất rộng rồi. Thực tế thì nó rộng tới mức em có thể lập luận rằng không có cái gọi là “tôn giáo”, như một THỨ mang tính tổ chức và thống nhất ấy. Có rất nhiều “tôn giáo”, vô số những định nghĩa về thuật ngữ này, và trong khi một vài thuật ngữ có thể đưa ra những ảo tưởng hữu ích, thì không phải tất cả đều như thế.
Ngay cả triết học cũng có thể là một tôn giáo, như khi nó xảy ra ở phương Đông với Nho giáo và Đạo giáo vậy. Tôn giáo có thể chỉ là niềm tin cá nhân và sự thực hành nghi lễ cá nhân, mà không bao giờ chuyển qua lĩnh vực xã hội. Hoặc, nó có thể chỉ là sự thực hành mà không cần bất cứ niềm tin nào. Nó quá đa dạng để có thể đưa ra bất kỳ nhận định chung nào.
Thậm chí em còn nghĩ rằng Chủ nghĩa tư bản có thể được xem như nào một tôn giáo đầy những niềm tin và thực hành rất cụ thể. Ví dụ nhé, niềm tin rằng “những kẻ làm việc chăm chỉ sẽ được trái ngọt (bởi hệ thống) và đạt được sự cơ động xã hội” chẳng khác gì niềm tin tôn giáo nhiệm màu từ Chủ nghĩa tư bản cả. Nó nhiệm màu bởi nó gắn nguyên nhân (sự chăm chỉ) với kết quả (sự cơ động xã hội) mà không có bất kỳ bằng chứng nào chứng minh cho cái nhân quả ấy. Cái nhân quả đúng kiểu ma thuật thuần tuý luôn ấy ạ. Nó là một ảo tưởng tôn giáo như bài post đã lập luận, nhưng không phải là không có cái hại nào. Mọi người thường hao phí cuộc đời mình làm việc quá sức vì thứ niềm tin này, mà không bao giờ gặt hái được trái ngọt xứng đáng cả.

Nhưng, giả như chúng ta đang bàn về tôn giáo nhất định như các nhà thờ Thiên chúa giáo hiện đại ở phương Tây đi. Những ảo tưởng này được mang đến bởi những giáo đoàn này và những thần thoại của họ không hẳn là thật sự tốt đẹp. Ví dụ, có rất nhiều báo cáo về những người lớn lên trong gia đình Cơ đốc giáo, bị dạy dỗ để cảm thấy tột cùng tội lỗi đối với tình dục và các giới tính khác biệt. Em nghĩ rằng niềm tin vào giáo điều tôn giáo cũng có thể gây nên sự lo lắng, kể cả khi nó có thể mang lại sự nhẹ nhõm nhất định. Có đôi khi, tôn giáo lại mang đến sự nhẹ lòng cho chính sự lo sợ mà thứ tôn giáo ấy tạo nên.

Peter Sloterdijk, trong cuốn sách “You must change your life”, đã lập luận rất thuyết phục rằng “Tôn giáo” không tồn tại như một thực thể có thể xác định được, mà đúng hơn là một khái niệm lỏng lẻo (nghèo nàn) mô tả một tập hợp các thực hành khổ hạnh mà hiện nay không thể nhận ra nổi.


Đâu là sự khác biệt giữa những kẻ sùng đạo nghĩ rằng họ có thể giải nghĩa thế giới tự nhiên, và những triết gia nghĩ rằng họ có thể làm việc ấy tốt hơn? Những ai theo chủ nghĩa tân thực dụng chắc đọc bài này xong sẽ cười vl. Tôn giáo có thể không khiến ta chạm được tới chân lý nhưng triết học thì cũng chẳng khá hơn đâu. Khiêm tốn tí đê.

Là một người sùng đạo, em không trông đợi chuyện tôn giáo hay triết học sẽ giải thích cách vận hành của thế giới tự nhiên. Đấy là việc của khoa học. Em mong là mong tôn giáo và triết học sẽ giải đáp những vấn đề như “Tại sao lại có thực tại?”, và giúp em quyết định nên làm gì khi em bị mắc kẹt với câu hỏi ấy.

Theo: Hoàng Linh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *