VỀ CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU CỦA NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN

Là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của nền thi ca hiện đại Việt Nam, với tập thơ đầu tay Điêu tàn, Chế Lan Viên đã đứng vào hàng ngũ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới ở những năm 30 của thế kỷ XX. Trong khi đó, giới học sinh ngày ấy và bây giờ lại biết đến ông qua những bài thơ Con cò, Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu… Chắc các bạn cũng từng tìm hiểu ít nhiều về cuộc đời ông để đem ra “chém” trong giờ kiểm tra Ngữ văn 

, vậy nên hôm nay mình sẽ giới thiệu một góc nhìn khác ít được chú ý hơn về cuộc đời Chế Lan Viên, đó là những mối tình của ông.

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20/10/1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên lập nên nhóm thơ Bình Định – người đương thời gọi “Bàn Thành tứ hữu”. Lúc chỉ mới 16 tuổi, còn đang học lớp đệ tam niên (cours de troisième année) Chế Lan Viên đã xuất bản tập thơ Điêu tàn, nói như nhà phê bình Hoài Thanh: “đã đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị”. Những tập thơ nổi tiếng khác của Chế Lan Viên có thể kể đến như: Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972)…

CẮT ĐỨT LÒNG ANH TRĂNG CỦA EM

Sinh ra ở Quảng Trị, sống tại Bình Định từ nhỏ, nhưng mối tình đầu của Chế Lan Viên lại diễn ra tại Đà Nẵng. Trong tác phẩm Bóng ngày qua: Bàn Thành tứ hữu viết về kỷ niệm cùng những người bạn thơ tri kỷ của mình, nhà thơ Quách Tấn đã kể lại:

“Chế Lan Viên đã đẹp trai, tài cao, giảng văn lại hấp dẫn. Học sinh ở Chấn Thanh hiện giờ cũng như ở Mission Thanh Hóa năm trước đều có cảm tình đặc biệt với Chế. Ở Chấn Thanh có năm, sáu cô nữ sinh đều đem lòng yêu Chế. Cô nào cũng dễ thương nhưng có hai cô xuất sắc là Tuyết và Giáo. Chế Lan Viên rất để ý và cũng rất có cảm tình song chưa biết chọn cô nào là người chung thủy. Loan (tức bà Đỗ Thị Hồng Loan, bạn gái của Quách Tấn) nói :

– Sao anh không tham gia ý kiến?

Tôi cười:

– “Xem mặt mà bắt hình dong”, mặt chưa xem thì làm sao biết lòng ngon dở.

Loan bảo:

– Thì bảo anh Hoan giới thiệu.

Tôi theo lời, sáng hôm sau trong giờ ra chơi, Chế tổ chức cho Tuyết, Giáo và nam nữ học sinh giỏi quốc văn trong trường đến tham kiến “nhà thơ Đường cuối cùng của Việt Nam” (ý chỉ nhà thơ Quách Tấn). Chỉ giáp mặt và nói chuyện trong mười lăm phút tôi đã nắm các yếu tố cần thiết để giúp đỡ Chế giải quyết “vấn đề”.

Tuyết rất đẹp, một vẻ đẹp quý phái, mặn mà nhưng sắc sảo. Còn Giáo thì không đẹp nhưng dễ thương như người thục nữ trong Kinh Thi. Trưa về, Chế hỏi ý kiến. Tôi đáp:

– Nếu Hoan muốn có một quán trọ cao sang để nghỉ chân trên con đường thơ muôn dặm thì nên chọn Tuyết. Còn muốn có một tổ ấm để con chim trời bay mỏi đêm trở về nghỉ ngơi thì nên chọn Giáo. Vì có Loan nên tôi không dám nói trắng vì sợ rủi chạm lòng tự ái Loan. Khi chỉ có Chế cùng tôi thì tôi bảo Chế:

– Hoan đã tỏ tình yêu cho cô nào chưa?

Chế đáp:

– Thật tình chưa.

– Thế thì từ nay chỉ nên chú tâm vào Giáo và phải hỏi thật Giáo có bằng lòng làm vợ Hoan chăng, nếu Hoan quyết tâm lấy Giáo làm vợ. Nhưng không nên làm mích lòng Tuyết.

… Tôi đánh điện tín hẹn cùng Chế gặp nhau ở ga Đà Nẵng. Chế cho biết là đã gặp được Giáo rồi và hai bên đã quyết định nếu cuộc trăm năm không thành thì Giáo nhất định không lấy chồng và Chế nhất định không lấy vợ. Tôi cười:

– Thề thốt có hơi vội… nhưng không sao. Trước hết Hoan nên mượn người thân với gia đình Giáo đến nhà dò ý cha mẹ Giáo rồi sẽ lo liệu.

Một tháng sau Chế viết thư cho biết rằng đã cho người đến nhà Giáo dạm hỏi rồi. Cha mẹ Giáo nhất định không gả con cho những người không có sự nghiệp. Tôi không lấy làm lạ vì đã dò hỏi, biết rõ tâm tính ông thân sinh và bà thân sinh của Giáo rồi, ông là Ba Hội vốn là một công nhân với hai bàn tay trắng lập nên cơ nghiệp, còn bà là người rất khó tính. Thời bấy giờ hạng nhà giàu đặt tiền của lên trên hết. Còn Chế chỉ là một thiên tài mà thôi. Kế đó tôi lại được một bức thư của Giáo than khóc về hoàn cảnh của mình: bị bà mẹ dày vò và định không cho tiếp tục học nữa. Giáo buồn thương, Chế đau khổ. Tôi viết thơ cho Chế bảo rằng: “Nếu hai bên Hoan, Giáo quyết lòng thương yêu nhau thì noi gương Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như”.

Nhưng sau đó ít hôm, tôi lại được tin rằng ông thân sinh Giáo đòi đâm đơn kiện Chế về tội dụ dỗ gái vị thành niên.”

Lúc này Chế Lan Viên đã đưa bà Giáo cùng vào Nha Trang trú ngụ tại nhà vợ chồng của nhà thơ Quách Tấn. Tại đây, bà Giáo lại thú thật rằng bà có một người cậu tên Tư Tào tại Nha Trang, thể nào ông Ba Hội, cha bà cũng sẽ nhờ ông Tư Tào dò xét coi bà Giáo có vào Nha Trang hay không, bởi ở Đà Nẵng ai cũng biết chuyện Chế Lan Viên và Nguyễn Thị Giáo và nhiều người biết Chế quen thân với Quách Tấn. Để tránh liên lụy, Quách Tấn đem gởi bà Giáo ở trường Đoàn Thị Điểm, còn Chế thì lên ở nhà một người bạn là Nguyễn Đình. Theo nhà thơ Quách Tấn:

“Ông Tư Tào cùng tôi vốn chỗ quen biết. Giáo và Chế rời chỗ tôi được vài hôm thì ông Tư Tào đến thăm. Biết rõ mục của ông Tư tôi tìm cách cho ông ta lén nhìn khắp trong phòng… Hai hôm sau, ông Năm Cần quen với Tư Tào mà cũng là chỗ quen thân với tôi tìm đến nữa. Ông Năm Cần tánh thật thà nhân hậu. Tôi tìm cách dò hỏi về việc gia đình ông Ba Hội ở Đà Nẵng. Ông Năm nói:

– Ông Ba Hội mới làm giàu mươi năm nay, người ít học nhưng hay làm sang, tôi và ông ta là bạn thân lúc nhỏ nhưng bây giờ ông ấy giàu tôi nghèo nên tình thân không còn như cũ.

Tôi nói:

– Tôi nghe ông Ba Hội có người con gái đẹp lắm phải không?

Ông Năm đáp:

– Đẹp thì không đẹp nhưng dễ thương. Nghe đâu con nhỏ đã đi theo trai rồi, gia đình cho người đi khắp nơi để tìm kiếm.

Tôi làm bộ ngạc nhiên hỏi:

– Người con trai ấy là ai?

Ông Năm đáp:

– Là Chế Lan Viên. Rồi ông lại hỏi tôi:

– Chế Lan Viên là bạn ông. Vậy mà ông không nghe chuyện ấy sao?

Nói quanh co hồi lâu tôi cười, hỏi:

– Chắc ông Ba Hội hay anh Tư Tào nhờ ông Năm đến xem coi Giáo và Chế Lan Viên có ở nhà tôi hay không chớ gì?

Ông Năm bèn thú thật quả rằng như vậy, tôi nói:

– Tưởng theo ai chớ theo Chế Lan Viên thì cũng nên mở tiệc ăn mừng vì Chế Lan Viên là người có tiếng tăm trong làng thơ hiện đại như ông Năm đã biết. Con mình đụng được người chồng như thế ấy còn muốn gì hơn! Ông Năm có con gái thơ hay sắc đẹp mà gả cho Bửu Đáo là một công chức nghèo. Thế mà ai cũng khen là vợ chồng sống với nhau hạnh phúc thua gì những bậc quyền quý phong lưu. Ông Năm cùng ông Ba Hội là chỗ cựu giao sao không nhân dịp này khuyên ông Ba Hội noi theo gương sáng của ông Năm đã treo đó.

Ông Năm nói:

– Ai can khuyên ông Ba Hội được, chỉ trừ một người là ông Thông Tùng ở Đà Nẵng bởi ông Ba Hội xưa kia là vai em út của ông Thông Tùng và nhờ ông Thông Tùng mà giàu có. Cho nên ông Thông Tùng nói gì ông Ba Hội cũng nghe.

Tôi mừng quá vì ông Thông Tùng là bạn thân của tiên nghiêm. Khi ra Đà Nẵng thăm Chế, tôi có đến thăm ông. Tôi bèn nói thật mọi việc cùng ông Năm và nhờ ông Năm ra Đà Nẵng. Ông Năm nhận lời.

Mấy hôm sau, ông Năm đi Đà Nẵng cho hay rằng mọi việc đã xong xuôi. Nhưng phải vượt qua nhiều khó khăn, nhiều gay cấn.

Một mặt tôi nhờ ông Năm Cần đem Giáo lên cho ông Tư Tào để đưa về Đà Nẵng. Một mặt bảo Chế Lan Viên về thưa với ông bà cụ sắm lễ vật ra nhà ông Thông Tùng để cùng ông Thông Tùng đến nhà ông Ba Hội. Vài tháng sau lễ thành hôn cử hành vào ngày 26 tháng 9 năm 1943. Cưới vợ rồi Hoan không dạy ở Đà Nẵng nữa. Giáo về Bình Định ở với ông bà cụ Chế, còn Chế ra Huế dạy trường Việt Anh”.

Như vậy, mối tình của Chế Lan Viên cùng người vợ đầu Nguyễn Thị Giáo đã được chắp cánh bởi người bạn trong “Bàn Thành tứ hữu” của ông, thi sĩ Quách Tấn. Nhưng ngờ đâu, cuộc tình đó lại không tròn vẹn…

Khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, Chế Lan Viên nhiệt thành đi theo Cách mạng. Sau một chiến dịch trên đường 9 về, năm 1949, ông được kết nạp vào Đảng. Thời gian này, Chế Lan Viên và bà Nguyễn Thị Giáo chung sống với nhau hạnh phúc, ba người con, hai trai (Phan Lai Triều, Phan Trường Định) và một gái (Phan Thị Chấn Thanh) lần lượt ra đời. Nhưng rồi chuyện sóng gió đã xảy ra vào năm 1958, khi ông đi chữa căn bệnh phổi dài ngày tại Trung Quốc. Nhà thơ Quách Tấn kể lại: “Tôi lại nghe tin rằng Giáo lại sinh thêm một gái nữa đặt tên là Thanh. Nhưng Chế và Giáo không còn là vợ chồng nữa. Việc Chế và Giáo bỏ nhau vào giữa năm 1959: Chế bị lao phổi phải sang Trung Quốc điều trị. Ở nhà Giáo không còn chung tình nữa. Khi Chế ở Trung Quốc về thì Giáo xin ly dị và giao ba đứa con cho Chế. Được tin ấy tôi và nhà tôi rất lấy làm đau thương. Đau thương cho vợ chồng Chế thì ít, đau thương cho ba đứa con thì nhiều. “Con không cha ăn cơm với cá, con không mẹ lót lá mà nằm”.

Tủi vì cái kiếp con không mẹ

Hổ cũng như ai sãi có chuồng

(Phan Sào Nam)

Không mẹ đã đau thương, nhưng thà không mẹ hẳn, đau thương còn có lúc nguôi ngoai. Đây lại không có mà có, có mà không thì đau thương thật vô cùng vô tận”.

Đây là nỗi khổ tâm nhất của Chế Lan Viên, dù sau đó ông độ lượng muốn níu kéo lại với nhiều thua thiệt nhưng cũng không thể. Cuối cùng cả hai chọn giải pháp là nhờ tòa án phán xử. Theo nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ – con gái nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, cha cô cũng có mặt tại tòa với tư cách người đại diện cơ quan và cũng là bạn thân với gia đình Chế Lan Viên. Cô kể lại:

“Năm 1958, sau một chuyến đi chữa bệnh dài ngày ở Trung Quốc của nhà thơ Chế Lan Viên, gia đình ông gặp chuyện sóng gió. Khi thấy nguy cơ đổ vỡ của gia đình, Chế Lan Viên rất đau khổ và không hề muốn điều đó xảy ra. Ông sẵn lòng chấp nhận tất cả, sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện để giữ được tổ ấm của mình. Tình yêu còn đến đâu thì chưa biết, nhưng chắc chắn ông thương các con của mình, khi đó đang còn bé dại cả. Nhưng có thể vì lòng tự ái hay vì một lí do riêng nào đó mà bà Giáo từ chối mọi lời đề nghị của Chế Lan Viên. Cuộc chia tay không thể nào tránh khỏi. Mọi lời khuyên can, hòa giải đều vô ích. Bạn bè văn nghệ sĩ và những người đồng hương đều tiếc cho hai ngưòi.

Ngày hai ông bà ra tòa chia tay nhau có mặt cha tôi. Ông đến dự phiên toà với tư cách là đại diện cơ quan (ngày đó ly hôn phải có đại diện cơ quan) và với tư cách là bạn lâu năm của cả hai người. Cha tôi kể lại rằng suốt buổi hôm đó Chế Lan Viên ngồi im lặng. Sau khi đã xong hết mọi thủ tục, trước khi ra về, ông mới lặng lẽ đứng lên và đọc bài thơ, thay cho lời nói cuối cùng:

Đến chỗ đông người anh biệt em

Quay đi thôi chớ để anh nhìn

Mày em trăng mới in ngần thật

Cắt đứt lòng anh trăng của em

Sự việc đó khiến mọi người vô cùng sửng sốt. Đúng là có một không hai.

Thông cảm với nỗi đau của ông, người ta càng thêm kính trọng nhân cách và lòng nhân hậu, vị tha của một thi sĩ tài năng. Nếu ai đã gặp bà Giáo, thì càng thấy cảm phục cái tài và cái tình của Chế Lan Viên. Nét nổi bật nhất trên gương mặt của bà Giáo là cặp lông mày hình vòng cung, cong như lá liễu.

Khi đã là một người đàn bà ở tuổi 80, đôi lông mày của bà vẫn còn nguyên nét mảnh mai, son trẻ như mảnh trăng đầu tháng. Ấn tượng mà bài thơ từ biệt của Chế Lan Viên để lại trong lòng cha tôi thật sâu đậm. Nhiều năm sau này ông vẫn còn kể về nó. Đặc biệt là sau những lần bà Giáo đến nhà thăm cha tôi, cùng với những người bạn đồng hương.

Nhiều năm tháng đã đi qua trong cuộc đời mỗi người. Nhà thơ Chế Lan Viên và bà Nguyễn Thị Giáo từ lâu đều đã có một gia đình khác, có những niềm hạnh phúc khác. Nhưng chắc rằng những tháng năm chung sống cùng nhà thơ Chế Lan Viên đã trở thành một phần đời không dễ nguôi quên đối với bà Giáo.

Trong một lần trò chuyện với anh Phan Lai Triều, con trai cả của nhà thơ và bà Giáo, tôi được biết rằng khi nhà thơ Chế Lan Viên đang đau nặng, nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy, bà Giáo đã yêu cầu anh đưa bà vào thăm. Nhưng để tránh sự xúc động quá lớn cho cả hai người, anh Triều đã khuyên mẹ không nên gặp lại cha mình khi cả hai đều đang đau yếu (lúc đó bà Giáo mới trải qua một cơn tai biến não).

Bà Giáo đã nghe theo lời con trai và ra về, chỉ nhờ anh chuyển đến Chế Lan Viên một chút quà…”

HOA NGÀY TA Ở BÊN NHAU

Chia tay xong, thời gian sau Chế Lan Viên bước qua mối tình khác với nhà văn Vũ Thị Thường. Nhà văn Vũ Thị Thường tên thật là Lê Thị Kim Nga, sinh năm 1930, tại thôn Tả Thanh Oai, xã Đại Thành, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Vốn là cán bộ hoạt động phong trào phụ nữ, sau làm báo. Năm 1959, bà đã viết truyện ngắn Cái hom giỏ đoạt giải A cuộc thi truyện ngắn báo Văn học năm 1958. Nhà thơ Chế Lan Viên khi ấy là biên tập Báo Văn học, do vậy mà hai người có điều kiện quen biết nhau. Cũng như mối tình trước, người “se duyên” cho chuyện tình của Chế Lan Viên và Vũ Thị Thường là một người bạn của ông, nhà văn Nguyễn Thành Long – tác giả truyện ngắn Lặng lẽ Sapa.

Nhà văn Nguyễn Thành Long kể lại lần mai mối “mát tay” của mình:

“Năm ấy, vào quãng 1960, trụ sở Hội Nhà văn ở 84, Nguyễn Du, Hà Nội đang có mở một trại sáng tác ở Khương Thượng. Bấy giờ chị Vũ Thị Thường từ Kiến Xương, Thái Bình lên dự trại. Chị hay ghé lại nhà chúng tôi.

Hôm ấy cũng thế, chị Thường vừa đến chiều hôm trước. Không ai bảo, hết câu chuyện thù tiếp, tự nhiên tôi nói về gia cảnh Chế Lan Viên, tuy có vẻ thờ ơ. Không ngờ, chị Thường khóc như mưa như gió. Chị đã luống tuổi mà chưa có chồng. Trong lời than thân trách phận, chị có nói bây giờ chị cũng như người có gia đình đi tập kết, về Nam, chị lại bơ vơ một mình, không kén cá chọn canh gì nữa. Tôi nửa đùa nửa thật gán ghép Chế Lan Viên cho chị. Ai cũng biết Chế Lan Viên có ba con và vừa ly dị vợ. Chúng tôi muốn cả hai người hạnh phúc, nhưng rõ ràng hoàn cảnh Chế Lan Viên nặng nề quá, tôi muốn giới thiệu mà lòng vẫn phân vân. Những câu chuyện thế này thường là rất khó, vả lại tôi cũng chưa biết ý Chế Lan Viên thế nào.

Hôm sau, đi làm về, Chế Lan Viên và tôi cùng đi bộ. Tôi phải trả lời một nghìn câu hỏi của anh. Tôi nói:

– Ông có muốn không mà hỏi dữ vậy? Nếu ông cần tích cực thì tôi sẽ lựa lời mà nói tích cực.

Chế Lan Viên nhìn thẳng vào mắt tôi:

– Mình muốn.

Tôi đáp:

– Tôi có linh tính là câu chuyện có chiều hướng tốt, nhưng ông phải để cho tôi nói chuyện trước với cô ấy một bữa nữa đã.

Ngay tối hôm đó, tôi gợi lại chuyện trong bữa cơm, đề phòng mọi nhẽ, nên nói ra nhiều hơn nói vào. Chế Lan Viên đã từng có vợ, gánh nặng thế này, tính tình thế nọ, bạn của tôi tôi biết, phải tìm hỏi cho thật kỹ, phải có thời gian, không thể qua loa, vội vàng được. Chế Lan Viên cũng vậy. Không ngờ, khi tôi đặt vấn đề, chị Vũ Thị Thường sụp xuống khóc. Tôi nói là tôi có bảo anh ấy đến đây, chị là người có bản lĩnh, rồi hai anh chị sẽ nhận xét nhau thêm. Nếu thành thì tốt, nếu không thành thì nội vụ cũng phải được kín nhẹm. Nói rồi tôi xin phép đi chữa xe đạp. Buồn cười nhất là tôi chưa ra, ông Chế nhà ta đã vào. Hai tiếng sau sửa xe xong trở về, thấy chị Thường vẫn ngồi nguyên ở chỗ cũ, trên bàn rắc đầy những cánh hoa đào và những mẩu giấy xé nhỏ mà chị Thường đang nhặt. Chị đưa tôi một tờ giấy có mấy chữ “mắt em đẹp lắm!”. Mọi việc chỉ đơn giản có thế thôi, Chế Lan Viên muốn cái gì cũng đơn giản. Anh chị em trong cơ quan có ép thì mới chịu làm một chút nghi tiết. Đám cưới là một bữa ăn bình thường ở nhà ăn Vân Hồ, anh em phải góp một túi gạo đưa cho chủ hiệu ăn.

Nghi tiết sơ sài. Nhưng những người yêu nhau thì nhớ mãi. Tình đó là những thiên tình sử đã đi vào truyền thuyết, và nhà thơ. Cảm xúc trước tình cũ mất đi, tình mới đến, Chế Lan Viên viết Tình ca ban mai – bài thơ tình hay nhất: “Em đi như chiều đi, gọi chim vườn bay hết. Em về tựa mai về, vườn non xanh lộc biếc”. Và sau này, nhiều bài thơ tình nổi tiếng ra đời là do kết tinh cảm hứng từ người phụ nữ tài hoa đó. Cả đến cái tên cô con gái đầu cũng mang một sắc thái văn học đặc biệt: Bé Thắm – tên nhân vật chính trong truyện ngắn đầu tay được giải nhất của cô giáo trường làng Vũ Thị Thường: Cái hom giỏ.

Tết năm nào, hai vợ chồng Chế Lan Viên cũng đến ngồi dưới cành đào nhà tôi. Và chúng tôi thiếu cái gì thì thiếu, không thể thiếu cành đào, kể cả sau ngày giải phóng, Chế Lan Viên và Vũ Thị Thường chuyền vào Viên Tĩnh Viên, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh”.

Chế Lan Viên và Vũ Thị Thường cưới nhau vào năm 1961. Cuộc hôn nhân hạnh phúc đã cho ra đời hai người con gái là Phan Thị Thắm và Phan Thị Vàng Anh. Lúc bé Thắm mới 1-2 tuổi, mẹ Thường vẫn đèo con đi thực tế về nông thôn ở huyện Kiến Xương, và huyện Tiền Hải (Thái Bình) để viết về những người phụ nữ tiên tiến xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Ở căn nhà cấp bốn đơn sơ, Chế Lan Viên với mênh mông nỗi nhớ vợ, nhớ con, ông đã viết thơ tặng vợ:

“Em đi về Kiến Xương

Mùa này mưa bão lắm

Phòng anh mồ hôi sương

Nhớ em như nhớ nắng

Chiều nay ốm một mình

Vắng em ngồi bên cạnh

Ngọn gió đùa trêu anh

Cửa khép rồi vẫn đánh

Đường xa trăm cây số

Ngỡ có em về đó

Đắp chăn dày cho anh

Và đứng nhìn anh ngủ

Rồi lại đi Thái Bình

Về Kiến Xương huyện nhỏ

Để lại trời bên cửa

Một màu xanh xanh xanh”

Sự yêu thương đằm thắm ấy không chỉ được Chế Lan Viên thể hiện bằng những vần thơ đầy nhớ nhung, xúc động mà còn bằng những việc làm rất nhỏ như: đi chợ, mua bán thực phẩm… Năm 1973, Quảng Trị mới giải phóng phần phía Bắc, Chế Lan Viên, Trần Công Tấn vào dự Đại hội mừng công của tỉnh Quảng Trị. Lúc về Hà Nội đi ngang qua thị trấn Ba Đồn (tỉnh Quảng Bình), Chế Lan Viên bảo tài xế dừng xe mua mấy chiếc nón về làm quà cho vợ. Thế mới thấy, tình cảm của nhà thơ Chế Lan Viên với vợ thật thắm thiết, nồng nàn.

Sau ngày Giải phóng, vợ chồng nhà thơ Chế Lan Viên vào sống tại Sài Gòn. Ông mua một mảnh vườn ở Tân Bình và đặt tên là Viên Tĩnh Viên. Những năm cuối đời, Chế Lan Viên bị căn bệnh ung thư phổi di căn hành hạ. Ông qua đời vào ngày 19/6/1989.

Cuộc đời của một nhà thơ như Chế Lan Viên dẫu nhiều thành công trên con đường thi ca nhưng lại gặp trúc trắc trong chuyện tình cảm, đặc biệt là với người vợ đầu của ông. Tuy vậy, cuộc hôn nhân thứ hai cùng nhà văn Vũ Thị Thường đã cho ông những quả ngọt cuối của cuộc đời, như chính ông thừa nhận:

“Em ơi, chớ cười anh nhé!

Sao đi sông rộng đèo cao

Mà tấm lòng riêng vẫn nhớ

Hoa ngày ta ở bên nhau

Căn phòng nho nhỏ hai ta

Hoa hồng mọc bên cửa sổ

Mỗi ngày lại mỗi ngày qua”

Mỗi ngày thắm đượm hương hoa

(Hoa những ngày thường, trích trong tập thơ Hoa ngày thường – Chim báo bão)

Khi nhắc đến tấm lòng rộng lượng của bà Vũ Thị Thường, nhà văn Lê Minh Quốc đã viết:

“Ngoài sự nghiệp văn chương, người bạn đời thủy chung của Chế Lan Viên đã sống với ông cho đến giây phút cuối đời. Có thể nói, ngoài tình yêu nguyên vẹn dành cho Chế Lan Viên, bà Thường còn có công rất lớn với văn học Việt Nam khi cặm cụi, nhẫn nại đọc từng dòng chữ viết chi chít của chồng mình trong những sổ tay thơ để rồi, từ năm 1992 đến nay, bà Thường đã công bố Di cảo thơ (3 tập), khiến công chúng lại thêm kinh ngạc trước tài năng độc đáo Chế Lan Viên. Cũng trong Di cảo thơ, có bài thơ Những mảnh trời xưa viết năm 1957-1959, tôi ngờ là ông viết cho người tình đầu với những lời đau đớn không nguôi:

Người mang lại ái tình không ở cùng tôi nữa

Nhưng em còn quẩn mỗi câu thơ

Trời xanh của sông Hàn nay đã vỡ

Mỗi câu thơ là một mảnh trời xưa

Hạnh phúc em đong cho ta bằng đôi mắt nhỏ

Đôi chén đắng cay làm lòng nức nở

Mỗi bức thư như gạch lỡ đầu tường

Nhưng đạn xé vào thịt non không lấp nổi

Thơ anh viết những lời anh chẳng sống

Chiều nay anh viết: Yêu em!

Thức ăn cũ biến thành thuốc độc

Lối cỏ hoa xưa nay đã gài mìn.

Thế nhưng, bà Vũ Thị Thường vẫn công bố, thế mới biết tấm lòng của bà dành cho nhà thơ Chế Lan Viên độ lượng và rộng lớn biết chừng nào”.

Một địa chỉ đáng chú ý trong bài thơ Những mảnh trởi xưa chính là sông Hàn. Đó là nơi Chế Lan Viên đã gặp gỡ và nên duyên cùng bà Nguyễn Thị Giáo. Khi biên soạn di cảo, nhà văn Vũ Thị Thường thừa khả năng nhận ra tín hiệu đó để lưỡng lự hoặc để ghen tuông, nhưng bà vẫn nâng niu như một báu vật trên hành trình thơ của Chế Lan Viên. Cũng vì vậy, bài thơ Những mảnh trời xưa chứng minh mối quan hệ cao đẹp giữa ba người Chế Lan Viên – Nguyễn Thị Giáo – Vũ Thị Thường.

Nguồn:

  • Lê Minh Quốc (2017), Chuyện tình cách danh nhân Việt Nam (tập 2), NXB Tổng hợp TP. HCM.
  • Thái Doãn Hiểu (1996), Giai thoại nhà văn Việt Nam, Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội.
  • Quách Tấn (2001), Bóng ngày qua: Bàn Thành tứ hữu, TP. Hồ Chí Minh, NXB Văn nghệ.

Từ trái sang: Quách Tấn, Nguyễn Đình, Chế Lan Viên
Chế Lan Viên và những người bạn (bên phải ông là nhà thơ Tế Hanh).
Vợ chồng Chế Lan Viên – Vũ Thị Thường cùng hai con
Nhà văn Vũ Thị Thường ở tuổi 90

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *