Sau đây là từ vựng được sử dụng trong giao tiếp qua vô tuyến của các phi công lái tiêm kích hoặc các loại máy bay tương tự theo quy chuẩn của khối NATO và Không Quân Hoa Kỳ.
RWR: Radar Warning Receiver: Bộ thu nhận và cảnh báo vô tuyến. Thông thường chỉ gọi tắt là Radar.
Bogey(s): Máy bay lạ chưa xác định danh tính trên RWR. Không được bắn.
Fast Mover(s): Từ dùng để chỉ máy bay phản lực nói chung.
Bandit(s): Máy bay đã được xác nhận là địch tuy nhiên chưa trực tiếp giao tranh (chưa bắn ai).
Hostile(s): Máy bay địch được xác nhận là có giao tranh. Khi một máy bay được gọi bằng từ này, bất kỳ quân đồng minh nào có thể bắn hạ đều được phép bắn.
“Scramble”: Khẩu lệnh của đơn vị chỉ huy. Khi nghe từ này các phi công cần cất cánh ngay lập tức để đánh chặn quân địch, không cần phải đợi bất kỳ lệnh nào khác.
Angel: Dùng để chỉ độ cao của một máy bay. Đơn vị đo sử dụng sẽ được quy định trước. Một số đơn vị NATO dùng hệ mét. Không Quân Hoa Kỳ dùng hệ đo đế quốc. Trong bài này mình dùng quy chuẩn của không quân Hoa Kỳ. Một Angel tương ứng với 1000 ft. ( 300m). Ví dụ khi phi công nói Angel 10 nghĩa là máy bay đang ở độ cao 10,000 ft so với mặt biển
“Roger”: Dùng để báo hiệu cho đầu bên kia rằng bạn đã nghe rõ điều vừa nói.
“Wilco”: Ngắn của “will comly”: Sẽ tuân theo chỉ định vừa được giao.
Bingo (fuel): Bingo là câu hiệu báo cho đồng minh rằng máy bay này đã chạm mức Bingo. Tức là bình nhiên liệu đã chạm mức chỉ đủ đề quay về căn cứ an toàn (có dư một chút). Khi một phi công báo Bingo fuel nghĩa là họ không còn có khả năng tham chiến nữa mà phải quay về.
Bullseye: Dùng để chỉ một điểm đã được định trước trên không trước khi nhiệm vụ bắt đầu. Dùng điểm này để gọi hướng các vật thể trong không gian. Ví dụ: “Bullseye zero-nine-zero at angel 4”
Bearings: Dùng để chỉ hướng của vật thể trong không gian. Khi giao tiếp Bearing được chia 360 độ của một vòng tròn. Trong đó ngay trước mặt là 0 và ngay sau lưng là 1-8-0.
Theo ví dụ trên thì phi công đã báo là có một vật thể bay theo hướng 0-9-0 (hướng Đông tính từ điểm bullseye) ở cao độ 4,000 ft.
/// Phần Hai. Fox Codes và các từ liên quan.
Fox Codes và các từ liên quan đề cập đến loại tên lửa đối không. Khi bắn tên lửa. Phi công cần nói cho đồng minh biết mình đã bắn cái gì. Ở đây ta có Fox 1,2,3 tương tự với loại tên lửa đã bắn. Phi công sẽ nói khi bắn là “Fox 3 at hostile” hoặc tương tự.
“Fox 1”: Đã bắn một tên lửa bán tự động radar (semi-active radar homing). Các loại tên lửa dạng Fox 1 là tên lửa dựa theo tín hiệu radar của máy bay đồng minh. (Ví dụ như tên lửa AIM-7 Sparrow). Nghĩa là nếu máy bay đồng minh mất khóa mục tiêu, tên lửa Fox 1 sẽ mất định hướng và sẽ bay đâu đó để tự hủy. Phi công cùng có thể chọn để tự hủy tên lửa này nếu bắn nhầm.
“Fox 2”: Đã bắn một tên lửa tầm nhiệt (Infrared Seeking). Ví dụ một số loại như AiM-9 Sidewinder hay R-60. Fox 2 là loại tên lửa hoàn toàn tự động và sau khi đã bắn nó sẽ đuổi tìm tín hiệu nhiệt được chỉ định. Không thể tự hủy.
“Fox 3”: Đã bắn một tên lửa chủ động (ACTIVE Radar). Ví dụ như AIM-120 ARAAM hay AIM-54 Phoenix). Tên lửa Fox 3 là loại tên lửa có trang bị radar của riêng nó bên trong (không hoàn toàn dựa theo radar đồng minh như Fox 1). Một tên lửa Fox 3 vẫn cần người bắn định hướng như Fox 1 tuy nhiên sau khi ra khỏi một khoảng cách nhất định thì nó có khả năng tự theo mục tiêu mà không cần người bắn chỉ định. Khi Fox 3 đã đạt tới khoảng cách này thì phi công sẽ nói “Pitbull” nghĩa là cái tên lửa này giờ đang ở chế độ tự động xác định mục tiêu.
Khi thả bom, phi công sẽ giao tiếp bằng từ “Pickle” hoặc “Paveway”. Từ trước và sau tương ứng với khẩu hiệu đã thả bom không dẫn đường hay có dẫn đường.
“Rifle”: dùng để chỉ khi phi công bắn một tên lửa không đối đất. “Bruiser”: Dùng khi đã bắn một tên lửa chống tàu chiến và “Greyhound” là tên lửa hành trình đối đất.
//Phần ba: Các từ sử dụng khi giao tranh. Phần này sử dụng ví dụ trước khi giải thích nhé.
Một phi công có hiệu là Dagger 1-1 giao tiếp với bộ chỉ huy chiến dịch (Overlord)
“Dagger 1-1 to Overlord, contact two fast movers, BRAA zero-four-zero, three kilcks at angel 6, hot.”
“Smokes in the air”
“Hostile, hostile. Dagger 1-1 defending.”
“Dagger 1-1, tally on hostile. Raygun.”
“Fox 2. Splash one hostile”
“Roger Dagger 1-1, cease fire and RTB”.
“Contact”: Khác với giao tranh mặt đất, trong không quân thì “Contact” chỉ hiểu là có tín hiệu của vật thể xác định trên radar.
“BRAA” là viết ngắn của Bearings, Range, Altitude, Aspect. Bearing là hướng. Đã nói ở trên. Range là khoản cách tới mục tiêu đang đề cập. Altitude: cao độ. Aspect: hướng đang bay/mũi cúa máy bay mục tiêu. Có ba Aspect là hot/cold/flanking. Hot nghĩa là mục tiêu đang bay thẳng vào hướng bạn. Cold nghĩa là đang bay đi. Flanking nghĩa là đang bay vuông góc với bạn.
“Klicks” Đơn vị đo. Viết ngắn của Kilômét. 1 Klick = 1 kilomet.
“Tally”: Khi một mục tiêu đã trong tầm nhìn bằng mắt thường của phi công.
“Smokes in the air”: Chỉ việc máy bay địch đã bắn tên lửa nhắm vào quân đồng minh.
“Defending”: Chỉ việc máy bay đồng minh đang phòng vệ khi bị tên lửa địch dí.
“Raygun”: Máy bay của bạn đã khóa radar lên mục tiêu là địch.
“Splash”: Dùng khi phi công chắc chắn đã bắn hạ một máy bay mục tiêu.
“Cease fire”: Ngừng bắn.
“RTB” ngắn của Return to base. Quay về căn cứ.
Vậy, trong ví dụ trên, phi công Dagger 1-1 đã báo Chỉ huy Overlord là anh ta thấy hai máy bay ở hướng Đông Bắc từ vị trí mình. Hai máy bay cách đó ba ki lô mét tại cao độ 6,000 ft. và đang bay thẳng về vị trí anh ấy. Anh ấy bị hai máy bay này bắn tên lửa và đang phòng thủ. Sau đó anh báo là đã thấy máy bay địch trong tầm nhìn, đã bắn một tên lửa Fox 2 và hạ một máy bay địch. Chỉ huy Overlord sau đó ra lệnh cho anh ngừng bắn và trở về căn cứ.