Mùa xuân năm 1978, bên bờ Nghi Hà có một lão nuôi ong chuyển đến. Nhìn dáng vẻ, lão có lẽ cũng đã ngoài 60 tuổi, nếp nhăn đầy mặt.
Lão kéo theo một cái xe kéo, trên xe chất đầy thùng nuôi ong, trong thùng, trên thùng nhung nhúc ong mật.
Nơi lão đặt những thùng nuôi ong của lão cách nhà ông cố tôi không xa, ở bìa rừng dương. Lão sắp xếp xong thùng ong còn đặc biệt mang một chai mật ong đến tặng ông cố tôi.
Ông cố tôi tặng lại lão một cây thuốc lá. Lão cầm cây thuốc, miệng ú ớ kêu lớn, khoa chân múa tay rất quyết liệt. Lúc này ông cố tôi mới biết, lão là một người điếc.
Lão khoa chân múa tay như vậy thực ra ý muốn nói rất đơn giản, ý là: cây thuốc lá ông cố tôi cho nhiều quá, lão không thể lấy được.
Ông cố tôi nói, cầm lấy đi, tôi làm ra cái này, trong nhà thuốc lá nhiều lắm.
Cũng không rõ nghe hiểu hay không, dù sao cuối cùng thì lão cũng nhận, cứ như vậy có qua có lại, hai người trở thành bạn bè.
Hai người họ không có việc gì cùng nhau đi tản bộ. Dù sao trên bờ đê sông Nghi Hà này cũng chẳng có ai khác, chỉ có hai người bọn họ, hai người ngồi xuống nói chuyện cũng khá vui vẻ.
Cụ thể thì họ nói chuyện thế nào chúng tôi cũng chẳng biết. Theo lời ông cố tôi nói, hai người chính là cứ thế vung tay múa chân bừa đi, vung vẩy vài cái nói vài câu là hết nửa ngày, thú vị ra phết.
Theo lời kể của ông lão, ông cố tôi biết, lão không con không cháu, cả đời làm nghề nuôi ong, không biết làm gì khác. Lão nói với ông cố, lũ ong mật giống như con lão vậy, được lão dạy dỗ vô cùng nghe lời, bảo làm gì làm cái đó.
Ông cố tôi nghe lão điếc nói vậy thì bảo lão thử cho ông cố tôi xem. Lão nghe lời ông tôi nói, không ngờ thật sự biểu diễn cho ông cố tôi xem thật.
Lão dùng một cái gậy gõ có nhịp có điệu vào thùng ong. Ông cố tôi nói, lão nghe không thấy, không biết là làm sao lão nghiên cứu ra được những âm thanh ấy. Theo nhịp gõ của lão, ong mật đang bay lộn xộn xung quanh đó biết xếp thành hàng thành lối, xếp thành một vòng tròn, thành hình chữ bát… khiến ông cố tôi kinh ngạc không ngớt.
Cha tôi cũng từng được xem lão điếc biểu diễn. Qua lời miêu tả của cha tôi, lão trở thành một nhân sĩ giang hồ kì quái.
Vốn dĩ ông cố tôi tưởng rằng, ông lão này cũng chỉ là một ông già nuôi ong bình thường, nhưng đến tháng 6 năm đó, ông cố tôi phát hiện, lão không hề đơn giản.
Thời gian đó tuy rằng việc trị thủy khu vực Nghi Hà đã khá tốt nhưng không có nghĩa là hoàn toàn yên ổn được. Tháng 6 năm ấy, lũ về đặc biệt sớm. Nước vừa về là xém chút dâng lên tận sân nhà ông cố tôi.
Sân nhà ông cố tôi với đê Nghi Hà cũng chỉ cao chênh nhau một hai mét, nếu mà nước dâng lên đến sân nhà ông cố tôi thì cách đê Nghi Hà cũng chẳng bao nhiêu nữa.
Nơi ông lão điếc nuôi ong đặt thùng ong cũng nằm cách sân nhà ông cố tôi hai ba mươi mét nhưng nước cũng chỉ cao xấp xỉ cỡ đó, không ngập tới chỗ lão, ông cố tôi còn khen lão nuôi ong khéo chọn vị trí.
Mỗi năm vào mùa nước lên luôn có mấy đứa trẻ dở hơi muốn khiêu chiến tự nhiên, đang yên đang lành nhảy xuống bơi lội, bị lũ cuốn đi biệt tích.
Năm nay cũng không ngoại lệ, nhìn thấy mấy đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi đang đứng trên bờ đê cởi quần áo, ông cố tôi vội chạy lên ngăn cản. Nhưng mấy đứa trẻ ranh hung hăng nào thèm nghe lời khuyên của một ông già chứ? Trong tiếng hi hi ha ha, một đứa trẻ chạy qua mặt ông cố tôi, nhảy ùm xuống con nước lớn bên dưới.
Ông cố tôi giậm chân đùng đùng nói hỏng bét rồi, mau cứu người thôi. Nhưng lúc bấy giờ trên bờ đê mưa lất phất, làm gì có ai?
Mấy đứa trẻ khác nói ông cố tôi chuyện bé xé ra to, nhưng bọn chúng cũng ngó xuống dòng lũ đang cuồn cuộn chảy, phát hiện đứa bé kia đã không thấy bóng dáng đâu nữa mới biết mọi chuyện thực sự nghiêm trọng rồi. Có điều lũ trẻ đều là bọn ranh con ương bướng, dù bạn chúng đã không thấy đâu nhưng chúng vẫn tiếp tục cởi đồ. Ông cố tôi điên tiết lên, nhặt một cây củi đốt dở đánh bọn chúng, không ngờ có đứa còn đánh trả lại ông cố tôi, chúng đâu có biết ông cố tôi võ nghệ đầy mình, đạp một cái đứa trẻ đó gập chân ngã quỳ xuống.
Tuy đã ngăn được mấy đứa trẻ ngu ngốc trên bờ, nhưng đứa đã nhảy xuống sông thì bó tay, không còn cách nào nữa. Đúng lúc ông cố tôi đang la hét bốn phía cứu người, ông lão nuôi ong không hề hoảng loạn đi ra từ màn mưa. Lão quăng giày rồi cởi vội cái áo, nhảy ùm xuống dòng nước cuồn cuộn chảy bên dưới.
Ông cố tôi thấp thỏm lo lắng bên trên, một thoáng sau đã thấy lão nuôi ong kéo theo thằng bé nọ ngược dòng bơi về. Ông cố tôi trên bờ chỉ biết há miệng ra nhìn. Lão điếc ném thằng bé lên bờ, cởi quần dài ra vắt nước. Ông cố tôi không dám chậm trễ, lập cập lật thằng bé lại cấp cứu một hồi, cuối cùng giữ lại được cho nó một mạng.
Khi gia đình đứa trẻ mang quà cáp đến cảm ơn cảm huệ không dứt, ông cố tôi mới biết ông lão này không đơn giản, đồng thời bắt đầu coi trọng lão hơn.
Ông lão điếc nuôi ong cũng không coi đây là việc gì đáng kể, vẫn thích qua lại với ông cố tôi như cũ, vẫn cùng nhau ăn uống, hút thuốc không khách sáo.
Nhưng bỗng đến một hôm, lão điếc xảy ra chuyện.
Tối đó trời mưa lớn, nước sông Nghi Hà cũng dâng lên, chỉ có điều không phải là những cơn lũ lớn nữa. Hôm đó ông cố tôi nằm trong phòng ngủ nhưng không yên giấc, cứ cảm thấy bên ngoài nhà từng đợt từng đợt tiếng ma quỷ khóc lóc ỉ ôi.
Trời vừa hửng sáng, ông cố tôi đã thức dậy, phát hiện trong căn chòi của ông lão nuôi ong không có người. Ông cố tôi lấy làm kì lạ, theo thói quen sinh hoạt của lão nuôi ong, bây giờ lão đúng ra đã dậy từ lâu rồi mới phải. Ông cố tôi đi khắp trong ngoài một vòng vẫn không thấy lão nuôi ong đâu, mà mấy thùng ong mật của lão đều được để đàng hoàng trong lều tránh mưa.
Đúng vào lúc ông cố tôi đang vô cùng thắc mắc lão nuôi ong ở đâu thì ông cố tôi phát hiện, từ phía bờ sông cuồn cuộn nước có một người đi tới. Người này không phải ai khác mà chính là lão điếc nuôi ong.
Lão nuôi ong từ dưới nước lên, đang giữa mùa hè mà miệng nhả ra khói trắng, còn chưa lên đến bờ đã lảo đảo ngã vật xuống.
Ông cố tôi hét lên hai tiếng, vội vàng chạy tới dìu lão dậy, lúc này mới phát hiện, toàn thân ông lão đều là vết thương. Vết thương nặng nhất kéo dài từ sườn trái xuống tận bụng, nhìn cứ như bụng lão bị rạch toác ra vậy.
Ông cố tôi bị những vết thương này dọa cho một trận điếng hồn, cõng lão nuôi ong chạy đến bệnh viện. Ông lão sau lưng ông cố tôi yếu ớt thì thào, nói không thể đi bệnh viện được.
Ông cố tôi nghe thấy ngạc nhiên hết sức, không ngờ lão già này có thể nói chuyện được. Ông cố tôi nói: “Không đi bệnh viện không được, tôi không chữa nổi cho ông đâu”.
Ông lão nói: “Đưa tôi về lều đi, tôi có thuốc.”
Ông cố tôi nghe lời của lão, đưa lão về lại lều. Dưới sự hướng dẫn của lão, ông cố tôi từ trong một thùng ong lấy ra một lọ thuốc mỡ.
Theo sự chỉ đạo của lão nuôi ong, trộn mật ong và loại thuốc mỡ nọ bôi lên vết thương. Bôi thuốc xong, ông cố tôi mới hoàn hồn lại được.
Mùa hè đó, ông cố tôi cẩn thận chăm sóc ông lão nuôi ong hơn một tháng trời. Một tháng sau đó, lão mới nói thật với ông cố tôi.
Ông lão nói, lão là người của Bát Đại Môn trong giang hồ.
Ông cố tôi lúc trẻ cũng từng lang bạt giang hồ, ông cố cũng hiểu việc của Bát Đại Môn. Trong hiểu biết của một số người, Bát Đại Môn chính là tám cách kiếm sống khác nhau, lại có thể nói là tám môn phái khác nhau. Nhưng ông cố tôi biết, Bát Đại Môn thực ra chính là một môn phái, chỉ có điều môn phái này phân thành những chi khác nhau bao gồm: kinh, bì, phiêu, sách, phong, hỏa, tước, yếu tổng cộng tám thứ. Ngoài ra còn có gì mà Nội Bát Môn, Ngoại Bát Môn…
Đại Bát Môn này nói theo cách khác, có thể gọi là Hồng Môn. Ở trong nước, không có ai nói mình là đệ tử của Hồng Môn, tất cả đều nói là người của Bát Đại Môn nhưng ra nước ngoài thì lại xưng mình là người Hồng Môn. Điều này thực ra có lý do cả.
Có người nói Thanh Bang có liên quan đến Bát Đại Môn, nhưng không chính xác, Thanh Bang có nguồn gốc từ Tào Bang, thuộc một hệ khác, bọn họ không đọ được Đại Bát Môn.
Đại Bát Môn không giống Thanh Bang, bất luận là đời nào cũng phải theo sư phụ. Tuy nhiên bởi vì Đại Bát Môn quả thực quá lớn, mối quan hệ ở đây cũng rất phức tạp, không phân rõ được cũng là dễ hiểu. Tuy đủ các chi nhánh chằng chịt nhưng tổ chức của Đại Bát Môn rất chặt chẽ, có Tổng Đường Trung Nghĩa, Nội Bát Môn, Ngoại Bát Môn… thực sự là vô cùng rắc rối.
Ông cố tôi sau khi biết thân phận ông lão nuôi ong cũng vô cùng bất ngờ, ông cố không ngờ rằng Trung Quốc đi vào thời kì kiến quốc mười mấy năm trời mà lại vẫn có thể gặp người trong giang hồ. Lão nuôi ông giải thích với ông cố tôi, bây giờ các bang phái trong nước đều đã tan rã, người thực sự trong giang hồ không còn nhiều nữa. Sau đó ông lão nuôi ong giải thích với ông cố tôi lý do lão giả bộ câm điếc.
Lão nói tuy rằng người trong giang hồ không còn nhiều nhưng vẫn là còn, hơn nữa những nhân sĩ này trong thế cuộc loạn lạc sống đều rất khá, có người làm quan, có người đi bộ đội, có người làm kinh doanh.
Bởi vì là nhân sĩ giang hồ có nghĩa là có ân oán tình thù. Lão nuôi ong nói, trước đây lão và các huynh đệ đồng môn có xảy ra tranh chấp, bọn họ muốn ép lão đến chỗ chết, bất đắc dĩ lão mới phải già vờ câm điếc bao nhiêu năm qua. Lão nói đến đây tỏ ra vô cùng ngại ngùng.
Ông cố tôi lại hỏi, vậy ông nửa đêm không lo ngủ, đi ra sông làm gì?
Lão trầm mặc một lúc mới nói với ông cố tôi, mấy năm trước lão nhận được tin, sông Nghi Hà có người cá, lão đến đây là để bắt người cá.
Ông cố tôi nghe xong liền ngớ người ra: “Người cá? Không phải bọn chúng sống ở biển sao? Sông Nghi Hà này sao lại có người cá được? Tôi sống ở đây mấy chục năm trời chưa bao giờ gặp.”
Ông lão nuôi ong cười nói: “Việc này thì anh không hiểu rồi, có người cá sống ở ngoài biển, cũng có người cá sống ở Nghi Hà này. Người cá sống ở Nghi Hà gọi Cá Quỷ, bị đuổi từ Hoàng Tuyền ra đây. Loại Cá Quỷ này đã sống ở đây mấy ngàn năm rồi, nhưng đây là một bí mật, xưa nay rất ít người biết được.”
Nói đến đây, lão cẩn thận từ dưới giường lấy ra một thứ đưa cho ông cố tôi, nói: “Đây anh xem đi, tôi có chứng cứ.”
Ông cố tôi đón lấy, tỉ mỉ xem tới xem lui, không rõ thứ đàn hồi dính dính trên tay này là cái gì?
Lão nuôi ong nói với ông cố tôi: “Đây là thứ tối qua tôi đi bắt Cá Quỷ nhổ ra được từ trên người nó, đây chính là một cái vẩy cá đó.”
Ông cố tôi hỏi lão: “Ông trăm phương ngàn kế muốn bắt Cá Quỷ để làm gì?”
Lão nuôi ong bám giường ngồi dậy nói: “Nước mắt của người cá là trân châu, vậy ông biết nước mắt của Cá Quỷ là thứ gì không?”
Ông cố tôi tuy thấy nhiều biết rộng nhưng thật sự không biết nước mắt của Cá Quỷ là thứ gì.
Lão nuôi ong thần thần bí bí nói: “Nước mắt của Cá Quỷ chính là dạ minh châu.”
Lão nuôi ong nói xong câu này, đột nhiên nghe thấy tiếng động bên ngoài lều. Lão bị dọa một trận, lớn tiếng hỏi: “Ai?”
Ông cố tôi chạy ra ngoài xem, nhìn cái bóng đang chạy, ông cố tôi đoán ra, có lẽ là thằng bé được cứu hôm trước.
Ông cố tôi đi vào, nói lại với lão nuôi ong. Lão im lặng một chút rồi nói: “Nếu như nó biết thì phiền phức rồi đây.”
Ông cố tôi bảo: “Mạng của nó là do ông cứu về, chắc là không đâu.”
Lão ta lắc đầu nói: “Việc này không chắc được, lòng người khó lường lắm.”
Nghỉ ngơi hơn một tháng, sức khỏe của lão nuôi ong coi như đã phục hồi hoàn toàn, chỉ là trên bụng lưu lại một vết sẹo rất dài. Lão chẳng hề để ý, nói với ông cố tôi rằng, sẹo trên người lão nhiều như thế, thêm một vết cũng chẳng sao.
Sông Nghi Hà tháng 7 đã qua những ngày nước dữ, trở về trạng thái bình yên vốn có. Nhưng thời gian này không hiểu sao trên Nghi Hà đột nhiên lại có rất nhiều người đến đánh cá. Lúc đầu ông cố tôi còn không biết là việc gì, sau đó vừa nghe ngóng được, ông cố tôi đã thấy mọi sự hỏng bét rồi. Những người đó vốn không phải là đi đánh cá, họ muốn bắt Cá Quỷ kìa.
Đúng như lão nuôi ong nói, thằng bé được lão cứu sau khi nghe thấy hai người nói chuyện đã kể tin này với tất cả mọi người trong thôn.
Người trong thôn lúc đầu vẫn chưa tin lời thằng bé đó nói, không ngờ để chứng thực, nó đã đến lều của lão nuôi ong lén lút trộm cái vẩy cá, đi rêu rao khắp nơi.
Hành động này của thằng bé khiến lão nuôi ong vô cùng buồn bã. Lúc lão uống rượu kéo tay ông cố tôi nói: “Đúng là lòng người, tôi đã trải qua nhiều rồi, đã không có gì có thể khiến tôi đau lòng nữa, nhưng việc nó làm vẫn khiến tôi buồn lắm.”
Ngày thứ hai sau khi lão nuôi ong kể với ông cố tôi, lão đã xếp đống thùng ong của mình lên xe kéo rời khỏi. Đến ông cố tôi cũng không kịp nói với lão lời tạm biệt, sáng hôm sau khi thức dậy thì căn lều của lão đã trống trơn, chẳng sót lại thứ gì.
Từ đó về sau, ông cố tôi không bao giờ gặp lại ông lão nữa, cũng không nghe tin tức gì của lão. Tuy lão rời đi rồi nhưng năm đó, những người tìm Cá Quỷ trên sông Nghi Hà lại đông vô số kể.
Đến cha tôi cũng đến tìm ông cố tôi, nói muốn chèo thuyền đi tìm bắt Cá Quỷ, bị ông cố tôi đạp cho hai đạp. Cha tôi trong lòng ngấm ngầm không vừa ý, tìm cha của ổng kể lể, lại bị cha của ổng đạp cho hai đạp nữa.
Liên tiếp bị ăn bốn đạp mà cũng vẫn không ngăn được quyết tâm đi tìm Cá Quỷ của cha tôi.
Khoảng thời gian đó cha tôi không thèm lên bờ, ổng với đám thanh niên trong thôn chèo thuyền lặn lội theo người lớn lùng sục khắp Nghi Hà.