Trả lời: Algis Kuliukas, Người đề xuất giả thuyết về nguồn gốc sông nước trong sự tiến hóa của con người, và là nhà tư vấn kho dữ liệu.
Nguồn: https://qr.ae/TWoc9w
Câu hỏi về sự tiến hóa của con người về mẫu hình lông trên cơ thể (phân bố như một cái mũ kỳ cục trên đỉnh đầu, có thể có lông cứng rất dài, một cái trán nhẵn bóng cho dù có sự phân bố nang lông dày đặc ở đó, một đôi lông mày mọc biệt lập, một cơ thể tương đối nhẵn nhụi với những lông tơ để thay thế lông cứng, và xuất hiện những ngoại lệ kỳ lạ để báo hiệu nó sẵn sàng để giao phối hay sự dị hình giới tính, cụ thể là nhiều lông cơ thể hơn ở con đực ví dụ như râu) là một câu hỏi thú vị nhận được khá ít sự chú ý trong các tài liệu.
Ví dụ, “Bách khoa toàn thư về tiến hóa loài người của Cambridge” (The Cambridge Encyclopedia of Human Evolution) là một cuốn sách ghi chép rất tường tận về sự tiến hóa của chúng ta, tập hợp hơn 500 trang và được viết bởi khoảng 50 nhà nhân chủng học hàng đầu, nhưng lại đơn giản không hề nhắc tới vấn đề đó.
Tưởng tượng một quyển sách viết về một loài mèo không giống những loài mèo khác và phần lớn không có lông ngoại trừ một nhúm trên đỉnh đầu. Không thể nghĩ được là trong nội dung của cuốn sách không có bất cứ sự đề cập nào về hình mẫu lông kỳ lạ ấy. Nhưng đó là những gì chúng ta có ở đây. Bạn có thể cảm thấy một sự thiếu sót trong khoa học lớn ở đây rồi chứ?
Sự tò mò bị thiếu vắng về hiện tượng này, may thay, không hoàn toàn tuyệt đối và trong những năm qua đã có một số những ý tưởng về chủ đề này được công bố. Dưới đây là một bản tóm lược ngắn…
Chọc lọc giới tính
Mỗi khi có một đặc điểm tính trạng khó giải thích dựa trên cơ chế chọn lọc tự nhiên đơn giản nhưng xưa cũ, những nhà sinh vật học tiến hóa thường hướng tới việc nghiên cứu về tình dục để xem liệu có căn cứ giải thích nào không. Bằng cách làm như thế, họ cũng đang theo dấu chân của những người đáng ngưỡng vọng nhất. Charles Darwin, từ rất sớm vào năm 1871 đã suy đoán vấn đề trên và đi tới một kết luận rằng lông cơ thể của con người có lẽ là kết quả của một loại chọn lọc giới tính.
Bởi có một sự dị hình lưỡng tính rõ rệt ở lông loài người trưởng thành, kết luận ấy có vẻ như là một giả thuyết khá hợp lý. Nhưng thế còn sự thật rằng con đực cũng đã mất một số lượng lớn lông và có nhiều cư dân loài người không phô bày sự dị hình lưỡng tính bằng mẫu hình lông cơ thể như những người khác? Và thế còn sự thật rằng những con người trần trụi không có lông nhất lại kém phát triển về mặt tính dục nhất?
Ý tưởng trên được đem tới công chúng lần nữa với quyển sách có tên “The Naked Ape” vào năm 1967 của Desmond Morris, trong đó Morris bàn luận rất cởi mở về mọi loại thuộc tính cơ thể. Ông còn đề xuất rằng ngực phụ nữ đã tiến hóa giống như hông của con người để gợi tình hơn! Không cần bàn cãi, những quan điểm như thế bị chế giễu vào thời đó và kể từ ấy, ý tưởng về sự chọn lọc giới tính quyết định lông cơ thể của con người mất dần sự chú ý.
Sự tương quan về kích thước cơ thể
Có lẽ nhà khoa học chủ chốt tiếp theo bàn luận về hiện tượng này là Alfred Schultz, vào thập niên 1930, người đã đặt vấn đề rằng sự phân bố lông trên cơ thể ít nhiều là do sự tương quan về kích thước con người. Cơ thể càng lớn, sự phân bố nang càng thưa. Những động vật có vú lớn nhất (voi, cá voi, vân vân) là những loài ít lông nhất và tương tự. Vì nang lông của con người phần lớn phát triển trong bào thai vào khoảng từ 7-8 tuần, khi phôi thai mới chỉ dài đôi ba centimetre, có cơ sở để kết luận rằng khi ta càng lớn về kích thước, nang lông càng cách xa nhau. (Không nghi ngờ tại sao những con thuộc liên họ Người nhỏ hơn như là vượn có lông dày hơn là những con lớn như tinh tinh, gorilla và con người – vì chúng đơn giản là nhỏ bé hơn.)
Nhưng vấn đề với giải thuyết này là nó chỉ là một sự so sánh định lượng. Nó hoàn toàn bỏ qua sự khác nhau định tính của lông cơ thể người, ví dụ như phần lớn những loại lông thừa hưởng từ tổ tiên linh trưởng của chúng ta đã tiến hóa trở thành những sợi lông tơ mượt và gần như vô hình.
Phát hiện vật ký sinh
Một giả thuyết khác đã được công bố nhiều lần trong những năm qua gợi ý rằng mẫu hình lông cơ thể người củng cố cho cơ chế phát hiện vật ký sinh ngoài da. Khá niệm này khá thực tế và thẳng thắn – nếu bạn được bao phủ bởi đám lông dày và cứng, sẽ rất khó khăn để có thể phát hiện ra rận, ve hay con bét. Nếu phần lớn cơ thể bạn trần trụi, và/hoặc lông trên cơ thể đều được thay thế bằng lông tơ ngắn mượt, việc phát hiện vật ký sinh sẽ dễ hơn nhiều.
Một trong những nghiên cứu khoa học về giả thuyết này là của Pagel & Bodmer vào năm 2003, họ đã đan cài cả vấn đề chọn lọc giới tính (biểu hiện ở cả hai giới) và vấn đề văn hóa, gợi ý rằng cách ăn mặc và chỗ ở cũng góp phần để phản ứng linh động hơn với sự thay đổi thời tiết.
Câu hỏi nghiễm nhiên đặt ra ở đây là: Tại sao chỉ có loài người phát triển chiến lược này để chống vật ký sinh ngoài mà không phải bất cứ loài nào trong khoảng 200–350 loài linh trưởng khác? Và tại sao, nếu đây là một sự thích nghi quan trọng, thì tại sao chúng ta không hói luôn? Với tôi, đây có vẻ như là một lời biện hộ mà thôi. Một vài vật ký sinh ngoài ở người đã cùng tiến hóa với chúng ta hàng triệu năm qua, vậy nên chiến lược này không có vẻ hiệu quả lắm ở bất cứ phương diện nào.
Mad Dogs and English Men Go Out in the Mid-Day Sun (*)
Gần đây, khi thuyết savannah ở đỉnh cao niềm tin nhân chủng học của con người, một giả thuyết được nghiên cứu cẩn thận được công bố. Từ giữa những năm 80 tới đầu những năm 90, Peter Wheeler xuất bản một chuỗi nghiên cứu ủng hộ ý kiến rằng cơ chế đứng hai chân của con người cũng giống như sự phân bố lông cơ thể là do áp lực chọn lọc để giữ mát cơ thể ở vùng đất cằn cỗi nóng nực.
“Thuyết điều hòa thân nhiệt” của ông đề xuất rằng bằng cách đứng và di chuyển với tư thế thẳng lưng, tông người thời xa xưa có thể giữ phần lớn phần trên cơ thể của mình xa khỏi mặt đất, đón những cơn gió nhẹ giúp cho quá trình làm mát mồ hôi. Điều này rõ ràng sẽ được củng cố nếu đi kèm với sự giảm lông trên cơ thể. Một trong những cuộc tranh luận chủ chốt về ý tưởng này là sự đứng bằng hai chân mang lại lợi ích cho tổ tiên chúng ta, cạnh tranh với những đối thủ bốn chân đặc biệt trong môi trường xích đạo vào lúc mặt trời lên cao, vì lúc đó bề mặt cơ thể tiếp xúc với bức xạ mặt trời sẽ giảm đáng kể. Trong khi những loài thú săn mồi trên savannah tìm kiếm bóng cây để giữ mát, chúng ta có thể đi ra ngoài để săn bắt – và câu chuyện tiếp diễn.
Giả thuyết ấy có vẻ thuyết phục cho tới khi bạn nhận ra sự thật rằng thay đổi khí hậu ở Đông Phi dẫn tới việc hình hành savannah tới muộn hơn rất nhiều so với sự tiến hóa đi bằng hai chân. Môi trường sống thời đồ đá của người đi hai chân đã có từ 7 triệu năm trước và phần lớn tồn tại trong môi trường sống rừng ẩm, khép kín. Linh trưởng sahelanthropus có lẽ là bằng chứng sớm nhất cho sự đi bằng hai chân ở người, được tìm thấy vào giữa thời kỳ đồ đá của hồ Chad, châu Phi và môi trường sống của tông người nổi tiếng nhất có tên tắt là Lucy (Australopithecus afarensis) phần lớn là một vùng đất ẩm trong khoảng nhiều triệu năm.
Sự đi bằng hai chân tiến hóa trên những savannah là một ý tưởng có lẽ đã quá hạn sử dụng (nếu như nó có!), nhưng ý tưởng đi loanh quanh những bãi đất trống giúp việc giữ mát phần thân trên và ý tưởng rằng nó là một nhân tố của việc tiến hóa lông cơ thể người lại rất de rigeur (thức thời).
Gần đây nó đã nhận được sự thúc đẩy vô cùng mới mẻ từ một nhà sinh vật học tiến hóa có tên Dan Lieberman (đọc là “Leeberman”) cùng đồng nghiệp của ông (xem Bramble et al 2004). Một lần nữa, ý tưởng này được liên hệ với sự đi bằng hai chân, nhưng thừa nhận rằng việc con người đi bộ không có vẻ như là được phát triển từ những đồng savannah khô cằn, mà thay vào đó họ đề xuất việc này là kết quả của việc con người phải chạy trên quãng đường dài.
Sự thật rằng con người có vẻ như có khả năng đặc biệt là chạy đường dài không thể nghi ngờ gì, và ở mọi nơi bạn đều có thể thấy người ta chạy bộ để giữ cơ thể cân đối, hoăc chơi những loại hình thể thao đòi hỏi nhiều vận động bằng chân. Nhưng lý luận kiểu này hứng chịu vấn đề muôn thưở của chủ nghĩa duy con người (anthropocentrism). Chỉ vì ta hành xử theo một kiểu cụ thể nào đó ngày nay không có nghĩa nó là nguyên nhân mà mọi thứ tiến hóa lúc ban đầu. Liệu khả năng chạy đường dài là một biểu hiện của thứ gì khác nữa? Có lẽ một trí khôn, hay một quyết định vượt qua bản năng “động vật” ngắn hạn?
“Thuyết chạy bền” (Endurance-Running Hypothesis) có một số những vấn đề nghiêm trọng cần được cân nhắc trước khi được ưu ái quá mức.
- Đầu tiên, nếu ý tưởng rằng tổ tiên loài người mất dần lông trên cơ thể là để giúp làm mát cơ thể bằng bốc hơi mồ hôi khi đuổi theo loài linh dương trên những savannah nóng nực và trụi cây ở châu Phi, phải có một câu trả lời thiết thực cho câu hỏi: Họ lấy nước từ đâu ra để bù cho sự thiếu hụt (do đổ mồ hôi) này? Điều này, ta nên nhớ, xảy ra trước khi có những bình nước đeo hông tiện lợi. Có lẽ nó đề ra một câu hỏi: Bạn cần phải mang theo một bình nước đeo hông lớn cỡ nào để đuổi một con linh dương vào giữa trưa nắng tại châu Phi, ngay cả ở bối cảnh ngày nay?
- Một khi con mồi bị bắt, có lẽ 20 km cách xa khỏi doanh trại, và cứ coi như mọi phụ nữ và trẻ em không đuổi theo cùng những người thợ săn mà ta tạm coi đều là con đực, thì sau đó thế nào? Họ làm thế nào để kéo cái xác con vật về trong khi xác chết lại là một mục tiêu vô cùng dễ dàng đối với một đống những con thú săn mồi và thú ăn thịt thích nghi hoàn hảo với môi trường savannah?
- Thế còn những phụ nữ và trẻ em kia? Giả thuyết này cũng chỉ giống như hình mẫu “đàn ông người săn bắt vĩ đại” rất thường thấy vào những năm 1970 mà Elaine Morgan không đồng tình – được phát hiện lại như hình mẫu “đàn ông ngươi chạy marathon vĩ đại”. Ý kiến này, theo bà Morgan, cho rằng phụ nữ chăm sóc trẻ con và lượm vài quả mọng trong lúc đợi các “tarzan” trở về với thịt trên tay. Nếu họ đá lông nheo đủ quyến rũ, họ có lẽ sẽ được chia cho một miếng, và chắc sẽ đổi lấy bằng tình dục. Trớ trêu thay, trong hai giới, phụ nữ lại là bên mất nhiều lông cơ thể nhất – nếu không đề cập tới trẻ em.
Bơi không phải một rào cản
Với những gì mà Elaine Morgan đề cập, chúng ta cuối cùng cũng có thể cân nhắc chắc chắn về ý tưởng khả quan nhất, dựa trên nhiều bằng chứng nhất và có cơ sở nhất về vấn đề này – đơn giản là sự phân bố lông cơ thể người là sự phản chiếu của một số thích nghi để giảm lực kéo bề mặt khi bơi trong nước.
Nếu bạn có bao giờ quan sát một nhóm trẻ em tiền dậy thì ở một hội thi bơi, bạn có thể sẽ để ý một điều rất đúng đắn với giả thuyết này. (Tôi nhấn mạnh “tiền dậy thì” ở đây đơn giản là để giảm thiểu khả năng xuất hiện râu, lông ngực và lông nách – tất cả đều là biểu hiện của báo hiệu giới tính và/hoặc sự chọn lọc giới tính.)
Nếu bạn có để ý, bạn sẽ nhận ra phần cơ thể ở trên mặt nước nhiều nhất, vào mọi thời điểm, tình cờ lại là phần có khả năng có lông che phủ cao nhất, và tương tự. Lông tơ nhỏ và mảnh phải chịu lực kéo ít hơn nhiều so với lông dày. Phần cơ thể ở “đầu tàu” (đỉnh trước) – chịu nhiều lực kéo nhất chính là phần trán người, lại nhẵn nhụi một cách kỳ quặc, mặc cho sự phân bổ dày đặc của các nang lông. Sự phân bố lông ở phần chi cũng củng cố việc bơi. Bạn hãy để ý ở mặt lưng của cẳng tay (theo thế giải phẫu) khá nhiều lông, trong khi mặt bụng lại gần như hoàn toàn nhẵn nhụi. Tôi luôn nhìn nhận đặc điểm này như một cách cung cấp lực cánh máy bay khi ở tư thế bơi ngực.
Những thích nghi bề ngoài này không ngừng lại kể cả khi bạn ra khỏi mặt nước. Bất kỳ ai từng đi bơi, từng tắm hay thậm chí đơn thuần chỉ đi dưới mưa bão cũng cảm thấy được rằng lông mày đang giúp cản nước chảy vào mắt họ. Người nào cạo sạch lông mày cũng biết rằng tiện ích này đã mất đi.
Hơn nữa, dường như có một mối quan hệ bổ sung hoàn hảo giữa thích nghi làm mát cơ thể được bàn luận bên trên và những thích nghi đưa ra bởi những nhà lý luận về savanna và việc bơi. Nếu bạn nóng lên, còn cách để làm mát ngay lập tức nào tốt hơn bằng dầm mình xuống nước? Một khi ra khỏi nước, da bạn ướt và làm cơ thể hạt nhiệt đến một thời điểm nó khô ráo trở lại và bạn lại đổ mồ hôi lần nữa. Nhưng có một điểm chung giữa hai chiến lược tiến hóa này, đó là cần một nguồn cung cấp nước sạch đáng tin xung quanh để bổ sung cho chúng.
Một bằng chứng ủng hộ khác tới từ thế giới của những tay bơi chuyên nghiệp, họ từ lâu đã được biết đến là những người phải cạo mọi sợi lông trên người để giảm lực kéo của nước; cùng với một chuỗi những thí nghiệm tuyệt vời vào cuối những năm 1980 (ví dụ thí nghiệm của Sharp & Costil 1989) đã miêu tả sự giảm đáng kể của lực kéo nước trong lúc thử thách bơi bằng cách push-off (bơi bằng cách đạp vào thành bể) (để ngăn chặn hiệu ứng ‘placebo’) ở những nam giới đã cạo hết lông.
Nếu ta tìm kiếm bằng chứng từ sinh học so sánh, ta có thể sẽ thắc mắc cùng câu hỏi với Desmond Morris trong cuốn sách “The Naked Ape” năm 1967…
“Có 193 [con số ngày nay sẽ nhiều hơn] loài khỉ và liên họ Người còn tồn tại. 192 trong số đó được bao phủ bởi lông. Ngoại lệ chính là một loài thuộc liên họ Người tự nhận là những Homo sapiens. Nhìn vào trường hợp đặc biệt này và sắp xếp những đặc điểm độc nhất của chúng, những nhà động vật học ngày nay sẽ phải bắt đầu so sánh. Loài nào cũng được ban thưởng cho sự trần truồng?”
Câu trả lời mà Morris đưa ra với chính bản thân mình trong vài trang tập trung vào những động vật có vú dưới nước.
Dĩ nhiên, có rất nhiều ngoại lệ: thú có vú dưới nước không đánh mất lông cơ thể, nhưng hãy cân nhắc câu hỏi của Morris theo hướng đúng đắn “Loài nào được ban thưởng sự trần truồng nữa?” Bên cạnh những đôi cánh không có lông của loài dơi, những con chuột chũi trần dưới mặt đất và số ít những con thuộc bộ Da dày (pachyderms) to lớn như voi và tê giác (một vài trong số đó có thể đã sống dưới nước trước đây), di chuyển dưới nước có vẻ như là ý tưởng ít gượng gạo nhất. Hỏi cùng câu hỏi cho những ý tưởng ở trên, bạn sẽ hiểu được vấn đề.
Chao ôi, Morris nhanh chóng trở lại lý thuyết cưng của ông – chọn lọc giới tính – nhưng Elaine Morgan, người đã say sưa đọc cuốn sách của ông khi nó được xuất bản, bị choáng ngợp bởi ý tưởng “dưới nước” của Sir Alister Hardy hơn cả và sẵn sàng viết cả nửa tá quyển sách về chủ đề ấy, trong vòng hơn 40 năm tới. Bà sẽ có ảnh hưởng tới cả một thế hệ người theo một cách mà chính bản thân lĩnh vực nhân chủng học chưa làm được và tôi chính là một trong số những người đó.
Thuyết sông nước trong sự tiến hóa loài người (Waterside Hypotheses of Human Evolution)
Quay lại sự hồi đáp còn lâu mới phù hợp của ngành nhân chủng học cho câu hỏi này, tôi nhận thấy khi nhắc tới việc lời giải thích được dựa trên nhiều bằng chứng nhất cho hiện tượng con người cơ bản này có một màu sắc “dưới nước”, chủ đề này sẽ bị phớt lờ.
Có một vấn đề đấy là bất cứ thứ gì ám chỉ việc di chuyển dưới nước có thể có dù chỉ một chút tác động lên biểu hiện tính trạng ở người đều bị né tránh một cách chủ động, và ngày nay vẫn có hiện tượng đó.
Cuốn sách mới xuất bản gầy đây Handbook of Paleoanthropology có một chương viết bởi Will Harcourt-Smith về “Nguồn gốc sự vận động hai chân.” Tôi rất thất vọng (nhưng không hoàn toàn bất ngờ) rằng nó không có một từ nào về giả thuyết bơi lội hay bất cứ bàn luận gì về sự thật rằng hoàn cảnh dễ đoán nhất phát triển sự đi lại bằng hai chân ở liên họ người chính là ở dưới mực nước ngang hông.
Rất nhiều đại học (kể cả trường của tôi UWA, Perth) có vẻ rất quyết đoán trong việc tiếp tục dậy một lý thuyết savannah rất “chính thống” mà với tôi vốn chỉ thuộc về những năm 1970.
Bài học ở đây là chắc chắn những hình mẫu khoa học rất khó để thay đổi. Một khi sự nghiệp và danh tiếng của người ta gắn liền với những điều như thế này, họ sẽ không có xu hướng chào đón bất cứ thứ gì với thông điệp rằng họ có lẽ đã bỏ lỡ một điều quan trọng.
Nhưng chúng ta sống trong hi vọng.
—————————————————————————-
Vài cuốn sách cùng chủ đề, vừa mới xuất bản gần đây:
Peter Rhys-Evans “The Waterside Ape” 2019.
Tài liệu tham khảo
Bramble, Dennis R; Lieberman, Daniel E (2004). Endurance running and the evolution of Homo. Nature Vol:432 Pages:345-352
Darwin, C (1871). The Descent of Man and Selection in Relation to Sex. 2 Vols. Murray (London)
Harcourt-Smith (2014) Origin of Bipedal Locomotion
Kuliukas AV, Morgan E, (2011). Aquatic scenarios in the thinking on human evolution: What are they and how do they compare?. In: Vaneechoutte M, Verhaegen M, Kuliukas AV, (eds.), (2011). Was Man More Aquatic In The Past? Fifty Years After Alister Hardy: Waterside Hypotheses Of Human Evolution. Bentham (Basel)
Mai, L., Owl, M., Kersting, M. (2005). The Cambridge Encyclopedia of Human Biology and Evolution. Cambridge University Press (Cambridge)
Morgan, E (1997). The Aquatic Ape Hypothesis. Souvenir Press (London)
Morris, D. (1967). The Naked Ape: A Zoologist’s Study of the Human Animal. McGraw-Hill (New York)
Pagel, M., Bodmer, W. A naked ape would have fewer parasites. Biology Letters 03BL:0060.S2, (2003).
Rhys-Evans P, (2019). The Waterside Ape. CRC Press
Schultz AH, The Density of Hair in Primates. Human Biology 3:303-321, (1931).
Sharp RL, Costill DL, Influence of body hair removal on physiological responses during breastroke swimming. Medicine and Science in Sports and Exercise 21:576-580, (1989).
Vaneechoutte M, Verhaegen M, Kuliukas AV, (eds.), (2011). Was Man More Aquatic In The Past? Fifty Years After Alister Hardy: Waterside Hypotheses Of Human Evolution. Bentham (Basel)
Wheeler PE, The Evolution of Bipedality and Loss of Functional Body Hair in Hominoids. Journal of Human Evolution 13:91-98, (1984).
Wheeler, Peter E (1992). The thermoregulatory advantages of large body size for hominids foraging in savannah environments. Journal of Human Evolution Vol:23 Pages:351-362