Được rồi, đây thực sự là một câu hỏi quá xịn, và nó cũng có một câu trả lời cực hay luôn. Khởi nghĩa Tây Sơn/triều đại Tây Sơn được dẫn đầu bởi 3 anh em đến từ một vùng nông thôn. Để trả lời rõ ràng câu hỏi này đòi hỏi rất nhiều thông tin cơ bản liên quan đến nó, nên tôi sẽ không bắt đầu thẳng từ cuộc khởi nghĩa nhé.
Phần 1:
Thay vào đó, chúng ta cần phải đi lùi về khá xa, những thời kì đầu của nhà Lê, triều đại kéo dài nhất trong sử Việt, từ 1428 đến 1789 [Hậu Lê]. Đây cũng là triều đại cuối cùng được gọi là “Việt Nam cổ điển” (thời kì này bao gồm nhiều “triều đại” được xem là chính thức ở Việt Nam, nhưng những triều đại lớn và quan trọng nhất là Ngô, Lý, Trần, Lê). Nhà Lê còn có thể chia làm 3 giai đoạn nữa: thời Lê sơ, thời nhà Mạc (nhà Mạc được ghi chép là một triều đại chính thức, họ đã lật đổ nhà Lê trong một khoảng thời gian) và thời Lê Trung hưng. Thời kì cuối ấy bắt đầu từ một cuộc nội chiến, như một sự khôi phục sau cuộc chiến giữa nhà Lê/chúa Trịnh và nhà Nguyễn với phe cầm quyền nhà Mạc. Cuộc chiến diễn ra không liên tục ít nhất đến năm 1677, khi nhà Mạc cuối cùng cũng đã bị đánh bại hoàn toàn.
Xuyên suốt và cả sau cuộc xung đột này, đã có sự xuất hiện của Nhà Nguyễn và Trịnh, các thế lực đằng sau ngôi vàng của nhà Lê. Trịnh Kiểm đã nắm toàn quyền lực của nhà Lê vào năm 1546; bước đầu thiết lập cho một cuộc xung đột nghiêm trọng trong nước. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, lúc này cảm giác được mối nguy, đã yêu cầu chị gái mình, cũng là vợ của Trịnh Kiểm, rằng thuyết phục chồng bà hãy gửi ông ta đến làm chỉ huy một vùng biên giới xa xôi là Thuận Hoá đi.
Ở phía Nam này, Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục đóng thuế cho nhà Lê-Trịnh ở miền Bắc, trong khi xây dựng căn cứ chính trị riêng cho mình. Tuy nhiên con trai ông, Nguyễn Phúc Nguyên, đã dừng trả các khoản thuế này vào năm 1602. Điều này chính là lí do đằng sau 7 lần đại chiến ọ Trịnh đánh họ Nguyễn giữa những năm 1627 tới 1672, và tất cả cuộc chiến đều thất bại. Trong thế kỉ tiếp theo, đã có sự hoà bình tương đối bởi phe miền Nam đã bắt đầu lơ là, quên đi miền Bắc.
Trong giai đoạn chưa hoàn thiện này, đã có một nền văn hoá và xã hội khác phát triển ở Việt Nam, quanh vùng mà hiện nay là miền Trung và Nam đất nước ấy. Nhà Nguyễn cai quản vùng ngoài của Việt Nam; Quảng Trị và Huế là những vùng từng chịu sự kiểm soát của người Chăm, một cộng đồng theo Ngữ hệ Nam Đảo. Chăm Pa từng là một quốc gia cổ xưa có lịch sử chiến đấu với các quốc gia láng giềng Việt Nam từ phương Bắc. Người Việt Nam khẳng định vùng lãnh thổ này nhưng chưa bao giờ thực sự kiểm soát được nó cả. Theo thời gian, người Việt đã dần mở rộng đất đai và cuối cùng hoàn toàn đánh bại Chăm Pa (sau khi gần như bị chiếm đoạt bởi bản thân người Chăm). Sự mở rộng này tạo ra một ranh giới mới với học thuật Nho giáo, dù cho hệ tư tưởng nhà nước dưới thời Lê ít nhiều không được biết tới cũng như không được nghĩ tới như thế. Thật vậy, từ thế kỉ 17 trở đi, một trung tâm văn minh mới của Việt Nam đã được thiết lập vững chắc: Huế, trung tâm chính trị được thành lập cùng với Thăng Long (tên cũ của Hà Nội) và Thuận Quảng, mọc lên như một khu vực kinh tế hùng mạnh, thách thức với quyền lực kinh tế của Đồng bằng Sông Hồng phía Bắc. Vùng này có một nền văn hoá riêng biệt, và người dân miền Nam cũng thừa nhận điều này, đồng thời coi vùng đất của họ là “Đàng Trong”, còn phía Bắc là “Đàng Ngoài”. Trở thành người Việt Nam theo 2 thiên hướng khác nhau bấy giờ là hoàn toàn khả thi.
Còn tiếp…
>>u/KippyPowers (6 points)
Phần 2:
Trong 100 năm hoà bình giữa hai nhà Trịnh-Nguyễn, nhà Nguyễn bắt đầu nghĩ rằng bản thân họ có ít quyền hành hơn với tư cách một “tổng tư lệnh”, hay là một lãnh chúa đáng tin cậy, và bắt đầu khẳng định lại vị thế của mình. Năm 1702, chúa Nguyễn xin cầu phong từ nhà Thanh để trở thành một chư hầu độc lập (Đại Việt, tên của triều đại Việt Nam trong thời kì này, có quan hệ với triều đình Trung Quốc; họ sẽ duy trì ngoại giao, cống nạp để đổi lại sự ủng hộ về quân sự và chính trị từ Trung Quốc. Về cơ bản, dù cho vô vàn những cuộc xung đột với nhau, và cả sự xâm lược từ Trung Quốc, thì các triều đại của 2 nước này vẫn có một sự liên minh mơ hồ và thấu hiểu với nhau). Nhưng điều này đã thất bại. Năm 1744, có hàng loạt cải cách tượng trưng và lễ nghi để công bố nhà Nguyễn ở Đàng Trong là một nước mới và tách biệt. Cũng trong thời gian này, Panduranga (tiểu quốc cuối cùng của Chăm Pa) được sáp nhập làm chư hầu của triều đình Huế. Nhà Nguyễn dần tiếp tục tiến về phía Nam.
Một phần quan trọng khác là vai trò của những người Trung Quốc xin tị nạn và nhập cư. Về phía nhà Nguyễn, họ tiếp tục mở rộng lãnh thổ sâu vào miền Nam và gây xung đột với người Khmer sống quanh khu vực sông Mê Kông. Năm 1658, nhà Nguyễn dựng lên một sự ảnh hưởng chính trị nhất định đối với một khu vực thuộc Campuchia bao gồm phía Bắc của sông Tiền (nhánh chính phía Bắc của sông Mê Kông). Một khu vực hành chính được thành lập bởi sự định cư của 3000 cư dân trung thành với nhà Minh vào năm 1679. Ở Hà Tiên vào đầu những năm 1700, Mạc Cửu, một thương gia người Hoa, đã thần phục nhà Nguyễn. Việc Hà Tiên trở thành trung tâm ngoại thương cũng khiến nhà Nguyễn hắt đầu nghĩ lớn hơn về mặt đế quốc. Họ bắt đầu chuỗi những chiến dịch thành công chống lại người Khmer (thực tế, người Pháp sau này đã vô tình “cứu” Campuchia ra khỏi sự diệt chủng hoàn toàn bởi cả Việt Nam và Xiêm khi ấy đều đang siết chặt xâm lược người Khmer; cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp đã dừng điều này lại). Tổng cộng, nhà Nguyễn đã chinh phục 3/5 lãnh thổ Đại Việt, mang đến cho Việt Nam kích thước và hình dáng hiện tại mà chúng ta đang biết đến. Và chuỗi thành công của Đàng Trong cũng kết thúc vào năm 1771 với sự xuất hiện của Khởi nghĩa Tây Sơn đến vùng đất Quảng Nam. Nhưng Tây Sơn là ai và họ thực sự muốn gì?
[Trans: Ở đoạn này OP dùng từ xâm lược Nam Việt, tuy nhiên mình không tìm được thông tin về cái tên Nam Việt trong khoảng thời gian này. Sau khi direct hỏi OP thì OP nói có thể dùng “Đại Nam” hay “Việt Nam” đều được.]
Nguyên nhân cuộc nổi dậy này là bởi phản ứng hời hợt của triều đình trước những thay đổi lớn về kinh tế của Đàng Trong qua 2 thập kỉ trước đó. Ngoại thương là trụ cột chính về thu nhập của triều đình, đồng thời cũng mở rộng kinh tế đất nước, nhưng nó lại bị trì trệ, suy sút qua nhiều năm. Ngoài ra, triều đình lại tạo nên những cuộc lạm phát thảm khốc bằng việc tự tạo ra đồng tiền riêng của mình vì thiếu hụt nhập khẩu tiền tệ từ nước ngoài.
>>>u/KippyPowers (8 points)
Phần 3:
Nhà Trịnh (bạn còn nhớ không nhỉ?) đã nắm bắt cơ hội tuyệt vời này để nội chiến với Đàng Trong nhằm chiếm lấy Huế. Điều này khiến nhà Nguyễn bắt buộc phải chạy xuống Đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà ngày trước gần như cả quân đội nhà Nguyễn đều đã bị quân Tây Sơn giết từ năm 1777, chỉ trừ Nguyễn Ánh 15 tuổi. Nguyễn Ánh, ngày nay được biết đến nhiều hơn với một cái tên khác (cái này về sau sẽ rõ), là con trai của một vị hoàng tử đã bị lật đổ trong cuộc đảo chính mà tôi đã nhắc đến ở trên. Nguyễn Ánh đã phải lưu vong ở Xiêm và các vùng lân cận cho tới năm 1789 (không tính đến việc ông tấn công quân Tây Sơn cùng lực lượng quân Xiêm rất lớn). Trong thời gian đó, quân Thanh đã kéo đến đánh phương Bắc, khiến nghĩa quân Tây Sơn lơ là chú ý, nhờ đó mà quân nhà Nguyễn đã có cơ hội quay về Gia Định (Sài Gòn ngày nay).
Trước khi viết nốt phần kết cho câu chuyện Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn, tôi muốn viết thêm một chút về cuộc nổi loạn của nghĩa quân Tây Sơn. Đây là cuộc khởi nghĩa thành công nhất trong lịch sử Việt Nam trước khi nước này trở thành thuộc địa. Đúng như mục tiêu thì cuộc khởi nghĩa đã lật đổ được Đàng Trong và xây dựng được nước Việt Nam độc lập thống nhất đầu tiên năm 1802, cũng như tác động đến những người nước ngoài làm việc cho triều đình Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa và nội chiến kéo dài khoảng 30 năm. Ở đây tôi chỉ muốn nói một chút về bối cảnh xã hội bấy giờ của cuộc khởi nghĩa.
Vào thời Tây Sơn, nhà Nguyễn đã ăn chơi quá độ mà không tập trung điều chỉnh bộ máy chính quyền. Khoảng những năm 1700, Đàng Trong bị chia thành hai chế độ, giống như dưới thời Nguyễn Hoàng. Đầu tiên là Thuận Hóa, kéo dài từ phía bắc Quảng Bình xuống đến Huế; và Quảng Nam, mở rộng hơn vào giữa thế kỷ 18, kéo dài từ Huế đến phía nam Đồng bằng sông Cửu Long. Trước khi Quảng Nam tiến sâu hơn vào miền Nam, bộ máy chính quyền đã hoạt động rất tốt, nhưng đến giữa thế kỷ 18, Quảng Nam bắt đầu bất ổn. Khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra cũng là kết quả trực tiếp của việc mở rộng Quảng Nam vào miền Nam và nội địa hóa Tiếng Việt ở Đàng Trong.
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vốn bắt nguồn từ vùng đất có nền văn hoá đan xen nhau, và bản thân Nguyễn Huệ (vị tướng lĩnh vĩ đại của quân Tây Sơn, sau này trở thành hoàng đế thứ hai của Tây Sơn; không có quan hệ với triều Nguyễn ở Huế sau này) và những người khác có thể là người đa dân tộc. Ví dụ, ở vùng này thuộc Đàng Trong, hôn nhân của người Việt Nam sẽ theo dạng ở rể, giống Thái Lan, Myanmar và Malaya (Champa, cũng như Malaysia, Indonesia và Philippines ngày nay). “Ở rể” nghĩa là con rể sẽ đến sống với gia đình nhà vợ. Tập tục này chỉ tồn tại trong khu vực ấy, nơi phổ biến nhất là dòng dõi văn hoá Chăm. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Nhạc, người anh lớn nhất trong 3 người đứng đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, tự xưng vương ở phế tích địa khu Vijaya, nơi ngày trước một công quốc của Champa ở gần làng Tây Sơn đã bị đánh bại bởi nhà Lê và diệt vong vì nhà Nguyễn; đây là khu vực mà người dân có ý thức rất mạnh mẽ về chủ nghĩa địa phương cũng như lòng tự tôn về bản sắc cá nhân. Anh em Tây Sơn và những người theo họ đã chứng tỏ được bản thân vô địch vì lực lượng bản địa cùng hùng hậu này, cả Nguyễn, Trịnh, Xiêm, Thanh đều không thể chống lại lực lượng nổi loạn ấy.
Việc nguồn gốc của cuộc khởi nghĩa là khởi phát từ địa phương càng làm rõ một sự thật rằng ngay ban đầu đây là một phong trào từ Miền Nam. Cuộc khởi nghĩa này nhằm lật đổ nhà Nguyễn, nhớ lại nhé, là những người nắm thực quyền cai trị ở Miền Nam bấy giờ. Anh em Tây Sơn dự định sẽ thay nhà Nguyễn lên điều hành Đàng Trong. Những nhân vật cốt lõi theo quân Tây Sơn là dân địa phương, và nhiều người trong số đó còn đến từ vùng cao nguyên. Thêm nữa là người Chăm cũng ủng hộ phong trào này, nổi bật nhất là nhóm người Chăm ở Phú Yên, lãnh đạo bởi một nữ thủ lĩnh mang tên Thị Hoả. Panduranga cũng ủng hộ anh em Tây Sơn, truyền lại cho họ vương giả, điều biểu thị cho uy lực thần thánh và cũng cho thấy sự hợp pháp trong mắt người dân bản địa. [Panduranga là một tiểu quốc tồn tại trong giai đoạn 757 – 1832, tương ứng khu vực hiện nay là Ninh Thuận và Bình Thuận, được biết đến là xứ Champa có cương vực rộng nhất và tồn tại sau cùng; theo Wikipedia]. Hồ Hữu Tường, một học giả người Việt, cũng đã viết rằng phong trào thờ thần Lửa và các hoạt động khác (chẳng hạn như thu thập trầm hương) mà ba anh em Tây Sơn tham gia vào thực sự rất “Chăm”. Thú vị nhất ở đây là vai trò của người em thứ 3, người rất bí ẩn và ít nói. Ông Hồ đã viết rằng người em ấy là một Tu sĩ Hồi Giáo. Điều này đã gợi ý về khả năng mang mọi người gắn kết lại với nhau của anh ta; bên cạnh đó người Chăm được biết tới là chịu ảnh hưởng từ nhiều tôn giáo khác nhau trong đó có đạo Hồi (hiện nay phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo hết). Các ngọn cờ của quân Tây Sơn có màu đỏ, tượng trưng cho chủ nghĩa địa phương của họ bởi màu đỏ là đại diện cho một vị thần phương Tây, là màu của những ngọn núi, và là màu của những điều siêu nhiên. Quân Tây Sơn cũng rất hứng thú với việc phát triển theo phương Tây, việc mà người miền Bắc và cả những người phe triều Nguyễn vẫn gọi là “kẻ cướp phương Tây” [western bandits] hay người/triều đại phương Tây. Quân Tây Sơn thậm chí từng tấn công Viên Chăn (thủ đô nước Lào hiện tại), nơi mà nhà Nguyễn vẫn chưa từng đụng tới bao giờ.
Giờ hãy nhớ lại rằng nhà Nguyễn đã từng tiến quân vào lãnh thổ Khmer cũng trong thời gian ấy, và điều này kéo theo việc đội quân sẽ di chuyển về phía Tây trong các chiến dịch của mình. Khi họ siết chặt Campuchia thì đồng thời phải hứng chịu thêm nhiều kẻ địch nữa vì đã khuấy động căng thẳng khi chinh phục miền Nam và miền Tây. Ngay sau đó, nhà Nguyễn đã bị áp đảo khi quân Trịnh lợi dụng thời cơ tấn công. Chúa Trịnh cũng đã kí một hiệp ước hoà hoãn, nội dung hiệp ước là nhà Trịnh sẽ để yên cho quân Tây Sơn đánh họ Nguyễn. Tuy nhiên, sau khi quân Tây Sơn đánh bại nhà Nguyễn, họ đã kéo ra Bắc. Nhà Tây Sơn phản bội hiệp ước, họ dọn dẹp luôn nhà Trịnh và tự bước lên ngôi vương đất Đại Việt. Vị vua cuối cùng của nhà Lê thì đã trốn sang Trung Quốc và cầu cứu vua Càn Long. Nhà Thanh đã kéo một lượng quân khổng lồ về phía Nam, ý định chinh phục Thăng Long. Nhưng cuối cùng họ đã bị Nguyễn Huệ đánh bại một cách bất ngờ vào đúng dịp Tết, nếu bạn tò mò thì trận đánh ấy là “Tiến công Tết 1789” [Trans: Chiến thắng Kỷ Dậu 1789, trận Ngọc Hồi – Đống Đa]. Trận thắng quân Thanh này vẫn còn lừng danh tại Việt Nam cho tới tận ngày hôm nay.
>>>>u/KippyPowers (5points)
Phần 4:
Giờ ta quay lại với Nguyễn Ánh ở Sài Gòn năm 1789. Khi nhà Thanh tấn công miền Bắc, đánh lạc hướng quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã có thể tự thành lập và củng cố lực lượng. Dần dần, ông mở rộng ra phía Bắc, đáng chú ý là với sự giúp đỡ của người Pháp và các người ngoại quốc khác (trên thực tế thì sau này triều đình của ông có cả quan chức người Pháp, Tây Ban Nha và Khmer nữa). Cuối cùng, năm 1801, Nguyễn Ánh đã có thể đánh bại nhà Tây Sơn, một lần và mãi mãi. Năm 1802, ông tự lập nên triều đại riêng, bao gồm tất cả những khu vực là Việt Nam ngày nay (và cả những vùng không phải nữa). Ông tự xưng Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam và đóng đô tại vùng đất quê hương mình là Huế. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến Việt Nam trong tương lai, nhưng đó là một câu chuyện khác, để lúc khác nhé. Gia Long được xem là một trong những vị vua vĩ đại của Việt Nam.
Nguồn:
Tôi đã dựa rất nhiều vào quyển sách tuyệt vời của Li Tana, quyển Xứ Đàng Trong: Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 và quyển Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn của George Dutton [Tên tiếng Anh: The Tây Sơn Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-Century Vietnam.]
Thêm nữa, tôi cũng lấy một vài chương từ quyển Việt Nam: Borderless Histories, biên tập bởi Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid; đó là các chương “The Eighteenth-Century Mekong Delta and Its World of Water Frontier” bởi tác giả Li Tana, và “Transnationalism and Multiethnicity in the Early Nguyễn Ánh Gia Long Period” bởi tác giả Wynn Wilcox. Tôi cũng lấy vài đoạn từ quyển Vietnam, A New History của Christopher Goscha nữa [Việt Nam Tân Sử].