Chủ nhật, ngày 30/11/2025 14:02 GMT+7
Tào Nga Chủ nhật, ngày 30/11/2025 14:02 GMT+7
Trong khi có chuyên gia đồng tình việc siết lại các ngành đặc thù để đảm bảo chất lượng, ý kiến khác lo ngại việc thu hẹp đào tạo có thể khiến hàng chục nghìn thí sinh mất cơ hội học luật, đồng thời tạo ra khoảng trống nguồn nhân lực pháp lý trong tương lai.
Ngành Luật: “Đào tạo ngành đặc thù phải đúng nơi, đúng năng lực”
Hiện nay cả nước hiện có 111 cơ sở đào tạo ngành Luật, chiếm khỏang một nửa số trường đại học. Trong đó, 90 trường có khoa Luật.
Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Hòa Bình ngày 25/11 cho biết, chủ trương sắp tới là không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo một số lĩnh vực, như cử nhân Luật, mà chỉ dạy như một môn phối hợp. Ý kiến này nhận được quan tâm từ dư luận.
Ông Lê Như Tiến, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, bày tỏ sự đồng tình với chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên tiếp tục đào tạo một số ngành đặc thù như Y và Luật.

Tuy nhiên, ông Lê Như Tiến cũng cho rằng để triển khai hiệu quả định hướng này, cần phải có lộ trình cụ thể. Một mặt, phải mở rộng quy mô đào tạo tại các trường chuyên ngành để đáp ứng nhu cầu lớn của xã hội; mặt khác, thu hẹp dần quy mô đào tạo tại các cơ sở không chuyên.“Phải có lộ trình phù hợp, nếu thực hiện quá gấp sẽ gây nhiều khó khăn cho các cơ sở giáo dục”, ông nói.
Siết chất lượng không đồng nghĩa với thu hẹp đào tạo?
TS.LS Đặng Văn Cường, giảng viên khoa Luật và lý luận chính trị, Trường Đại học Thủy lợi, cho rằng chủ trương tăng cường chất lượng giáo dục đại học, xây dựng các trường đạt chuẩn quốc tế để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực thời kỳ mới là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, ba lĩnh vực quan trọng là Y – Sư phạm – Luật luôn có tác động trực tiếp đến đời sống xã hội, liên quan đến quyền lợi, sức khỏe, tài sản và tri thức của người dân, nên cần được quản lý và giám sát chặt chẽ.
Tuy nhiên, theo LS Cường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không đồng nghĩa với việc thu hẹp quy mô đào tạo hay chỉ cho phép các trường chuyên ngành đào tạo cử nhân luật. Chất lượng được quyết định bởi đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra và hệ thống đánh giá – giám sát, chứ không phải bởi tên gọi là “trường luật” hay “khoa luật”.
TS. Cường cho biết, quan điểm cho rằng chỉ các trường chuyên ngành luật mới nên được đào tạo cử nhân luật, cách làm này là đi ngược xu hướng giáo dục đa ngành – liên ngành của thế giới; Không phù hợp thực tiễn Việt Nam, nơi nhu cầu học luật và làm việc trong lĩnh vực pháp lý đang rất cao; có thể gây khủng hoảng nguồn nhân lực ngành luật, vì chỉ vài trường không thể đáp ứng lượng thí sinh và nhu cầu tuyển dụng lớn hiện nay.
LS Cường nhấn mạnh: “Trên thế giới chưa có quốc gia nào quy định chỉ trường luật chuyên mới được đào tạo cử nhân luật”. Trong khi đó, nhiều cơ sở đào tạo luật hiện nay có điểm đầu vào rất cao, nhiều trường đạt trên 25 điểm/3 môn, chứng tỏ nhu cầu lớn và chất lượng tuyển sinh tốt.
Theo TS. Cường, thay đổi chính sách giáo dục, đặc biệt với ngành luật, cần dựa trên nghiên cứu khoa học và đánh giá toàn diện. Muốn nâng cao chất lượng, có thể áp dụng các giải pháp: Kiểm định và giám sát chặt chẽ chất lượng tại từng cơ sở; siết điều kiện mở ngành, nhất là về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất; chuẩn hóa chương trình, học liệu, chuẩn đầu ra; tăng cường thanh tra, đánh giá độc lập
TS Cường đề xuất, chỉ nên quy định đào tạo nghề luật sư, kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên tại các cơ sở chuyên ngành, còn đào tạo cử nhân luật – trình độ nền tảng – nên tiếp tục duy trì ở nhiều trường để đáp ứng nhu cầu xã hội.
Ông Phạm Thái Sơn, Giám đốc Tuyển sinh Trường Đại học Công Thương TP.HCM, nhận định rằng việc yêu cầu các trường phải lập tức dừng đào tạo các ngành Y và Luật nếu “không đủ điều kiện” là điều gần như bất khả thi. Nếu áp dụng ngay, các cơ sở đã mở ngành sẽ đứng trước câu hỏi phải xử lý ra sao: đóng ngành, thu hồi mã ngành, chuyển hướng đào tạo hay tiếp tục duy trì nhưng không được mở mới? Mỗi phương án đều kéo theo hàng loạt hệ lụy pháp lý.
Về mặt luật định, không thể có chuyện “tự ý đóng ngành”. Luật Giáo dục Đại học và các nghị định hiện hành trao quyền tự chủ học thuật cho các trường. Một khi ngành đã được mở đúng quy trình và được Bộ hậu kiểm, ngành đó đã có cơ sở pháp lý tồn tại. Nếu nhà quản lý muốn rút quyền mở ngành, buộc phải có quy định chuyển tiếp rõ ràng, cơ chế đánh giá lại hoặc yêu cầu kiểm định bắt buộc; và chỉ khi phát hiện vi phạm thì mới được thu hồi.
Với những ngành có tính đặc thù, thông lệ xử lý thường theo hai hướng. Thứ nhất, dừng cấp phép mới, nhưng cho phép những ngành đã tồn tại tiếp tục đào tạo trong khuôn khổ mới – tương tự như việc “đóng sổ hộ khẩu”: ai có rồi thì được duy trì, còn mở mới phải tuân chuẩn cao hơn. Đây là cách giảm thiểu va chạm nhất.
Thứ hai, siết lại toàn bộ tiêu chuẩn đào tạo: tăng yêu cầu về cơ sở thực hành (đặc biệt trong ngành Y), nâng chuẩn giảng viên cơ hữu, chuẩn đầu ra, kiểm định định kỳ… Khi không đạt chuẩn, ngành sẽ bị đình chỉ theo đúng quy trình đánh giá chất lượng.
Theo ông Sơn, phương án hợp lý nhất là: các ngành Y và Luật đã mở vẫn được tiếp tục đào tạo; Bộ ban hành bộ tiêu chuẩn mới, cao hơn và đặc thù hơn; các trường không đáp ứng trong 3–5 năm sẽ buộc phải chuyển đổi, liên kết đào tạo hoặc bị ngừng tuyển sinh. Việc cấp phép mới cho hai ngành này gần như chỉ còn dành cho các trường có năng lực chuyên sâu.
Nói cách khác, cơ quan quản lý sẽ lựa chọn “siết bằng chất lượng”. Các trường đang đào tạo ngành Y và Luật sẽ không bị đóng cửa nếu bảo đảm chất lượng và vượt qua hậu kiểm, dù có thể bị hạn chế trong việc mở ngành mới hoặc mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh.