Tranh cãi về sai lầm và phản bội khi Ukraine từ bỏ hạt nhân

Người dân Ukraine đã bỏ phiếu áp đảo cho nền độc lập khỏi Liên Xô trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 1/12/1991. Khoảng 84% cử tri đủ điều kiện đã tham gia cuộc trưng cầu và khoảng 90% trong số họ tán thành độc lập. Ngày 25/12/1991, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev tuyên bố từ chức và giải thể Liên Xô.
Vào lúc này, cường quốc hạt nhân lớn thứ ba trên trái đất không phải là Anh, Pháp hay Trung Quốc. Đó là Ukraine. Sự sụp đổ của Liên Xô dẫn đến việc Ukraine mới độc lập được thừa hưởng khoảng 5.000 vũ khí hạt nhân mà Moscow đã đóng trên đất của họ (3.000 vũ khí hạt nhân chiến lược dùng để tấn công các cơ sở quân sự lớn, hạm đội hải quân và lực lượng thiết giáp, cùng khoảng 2.000 vũ khí hạt nhân chiến lược dùng để phá hủy các thành phố). Các hầm chứa dưới lòng đất tại các căn cứ quân sự của nước này chứa các tên lửa tầm xa mang tới 10 đầu đạn nhiệt hạch, mỗi đầu đạn mạnh hơn nhiều so với quả bom đã san bằng Hiroshima. Chỉ có Nga và Mỹ có nhiều vũ khí hơn.
Ukraine có thể kiểm soát vật lý kho vũ khí này, nhưng không nắm quyền kiểm soát hoạt động của chúng. Nga đã kiểm soát mật mã cần thiết để vận hành kho vũ khí hạt nhân thông qua hệ thống Permissive Action Link (PAL hay Đường nối lệnh cho phép hoạt động của vũ khí hạt nhân) cùng hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Nga, dù điều này không thể đảm bảo ngăn hoàn toàn Ukraine tiếp cận kho vũ khí.
Vào tháng 5/1992, Nga, Mỹ, Belarus, Kazakhstan và Ukraine ký Nghị định thư Lisbon cho hiệp ước START I. Nghị định thư cam kết Belarus, Kazakhstan và Ukraine tuân thủ Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) với tư cách là quốc gia không có vũ khí hạt nhân càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, các điều khoản để chuyển giao đầu đạn hạt nhân không được thống nhất và một số quan chức, nghị sĩ Ukraine bắt đầu thảo luận về khả năng giữ lại một số tên lửa RT-23 (SS-24) hiện đại do Kiev phát triển và các đầu đạn do Nga chế tạo.
Năm 1993, hai trung đoàn tên lửa UR-100N (SS-19) ở Ukraine được rút về kho vì các thành phần đầu đạn đã quá tuổi thọ hoạt động. Giới lãnh đạo chính trị Ukraine nhận ra quốc gia này không thể có lực lượng hạt nhân hùng mạnh, vì không thể duy trì các đầu đạn và đảm bảo an toàn hạt nhân lâu dài. Sau đó, chính phủ Ukraine và Nga ký một loạt thỏa thuận song phương từ bỏ các yêu cầu của Ukraine với vũ khí hạt nhân và hạm đội Biển Đen, để đổi lấy việc xóa nợ 2,5 tỷ USD khí đốt và dầu mỏ, cũng như nguồn cung nhiên liệu tương lai cho các lò phản ứng hạt nhân của nước này. Ukraine đồng ý phê duyệt hiệp ước START I và NPT ngay lập tức. Quyết định này vấp làn sóng chỉ trích nặng nề của công chúng và bộ trưởng quốc phòng Ukraine Kostyantyn Morozov từ chức.
Tới ngày 18/11/1993, quốc hội Ukraine thông qua kiến nghị đồng ý START I nhưng từ bỏ Nghị định thư Lisbon, cho biết Ukraine chỉ ngừng hoạt động 36% bệ phóng tên lửa và 42% đầu đạn hạt nhân trên lãnh thổ, đồng thời yêu cầu bồi thường tài chính cho số vũ khí hạt nhân chiến lược bị loại bỏ năm 1992. Ngay hôm sau, tổng thống Ukraine Leonid Kravchuk nói: chúng ta phải loại bỏ những vũ khí hạt nhân này. Đây là quan điểm của tôi và tôi sẽ không đi chệch hướng. Ngày 15/12/1993, phó tổng thống Mỹ Al Gore đã đến Moskva để tham dự một cuộc họp. Sau các cuộc thảo luận bên lề, phái đoàn Mỹ và Nga, trong đó có thứ trưởng quốc phòng Mỹ William J. Perry, đã bay tới Ukraine để thống nhất về những phác thảo trong thỏa thuận ba bên. Dự thảo đề cập tới hỗ trợ của Mỹ trong tháo dỡ các hệ thống hạt nhân ở Ukraine và đền bù uranium trong các đầu đạn hạt nhân.
Các bên tham gia được mời tới Washington vào đầu tháng 1/1994 để hoàn tất thỏa thuận. Tuy nhiên, Ukraine không muốn cam kết chuyển giao tất cả đầu đạn trước 1/6/1996 được công khai vì lý do chính trị trong nước. Nga cũng không muốn công khai khoản bồi thường cho Ukraine vì lo ngại Belarus và Kazakhstan cũng yêu cầu tương tự. Các bên quyết định loại hai vấn đề này khỏi thỏa thuận được công bố, nhưng vẫn được nêu ra trong các bức thư riêng giữa các tổng thống. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ghé thăm Kiev khi trên đường tới Moskva ký Tuyên bố ba bên và phát hiện Ukraine có những cân nhắc khác về việc ký kết. Ông Clinton nói với tổng thống Ukraine rằng không ký sẽ gây tổn hại cho quan hệ Mỹ – Ukraine. Sau những trao đổi riêng, Tuyên bố ba bên được Mỹ, Ukraine và Nga ký tại Moskva trước giới truyền thông vào ngày 14/1/1994. Sau đó, Mỹ cung cấp hơn 300 triệu USD và hỗ trợ quá trình giải trừ vũ khí hạt nhân ở Ukraine. Washington cũng cung tăng gấp đôi viện trợ cho Kiev lên 310 triệu USD trong năm 1994.
Một tuyên bố ba bên với phụ lục chi tiết được thống nhất, dựa trên các điều khoản thỏa thuận trước đó. Song nó đi kèm các thỏa thuận tài chính chi tiết và cam kết chắc chắn hơn về việc quá trình bàn giao ít nhất 200 đầu đạn cho Nga, cũng như việc sản xuất nhiên liệu lò phản ứng cho Ukraine ở Nga. Tới ngày 5/12/1994, tại hội nghị ở Budapest, thủ đô Hungary, các nước gồm Mỹ, Nga, Ukraine, Anh đã ký một ban ghi nhớ đảm bảo an ninh liên quan tới Kiev gia nhập Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (hay còn gọi là Bản ghi nhớ Budapest). Cam kết quan trọng nhất của ba nước là tái khẳng định nghĩa vụ của họ để kiềm chế bất kỳ mối đe dọa hoặc động thái sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của Ukraine. Họ cũng cam kết kiềm chế hành động áp bức kinh tế đối với Ukraine và tìm kiếm hành động lập tức của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để hỗ trợ cho Ukraine trong trường hợp có hành động tấn công vào nước này. Kể từ khi ký Bản ghi nhớ Budapest, Ukraine đã đáp ứng các nghĩa vụ bằng cách chuyển giao kho vũ khí lớn thứ ba thế giới. Belarus đạt được quy chế không có vũ khí hạt nhân vào tháng 11/1996, Kazakhstan vào tháng 4/1995. Ukraine vào tháng 6/1996 đã đưa đầu đạn hạt nhân cuối cùng rời khỏi lãnh thổ và đến cuối năm 2001, hầm chứa tên lửa cuối cùng đã bị phá hủy.
Thời gian qua, khi căng thẳng với Nga dâng cao, nhiều người tại Ukraine tỏ ra nuối tiếc, xem việc giải giáp hạt nhân là sai lầm. Andriy Zahorodniuk, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine, được The New York Times dẫn lời: Chúng tôi đã cho đi khả năng hạt nhân mà không có gì đáp lại. Nhiều người ở Ukraine cảm thấy rằng quyết định từ bỏ vũ khí hạt nhân năm 1994 của nước này là một sai lầm. Sự ủng hộ của dân Ukraine đối với việc tái vũ trang hạt nhân đã tăng lên mức cao nhất lịch sử gần 50% sau cuộc sự kiện Crimea sát nhập vào Nga năm 2014.
Sau khi Crimea bị Nga sáp nhập, một nhóm nghị sĩ trung dung đã đề xuất Ukraine rút khỏi NPT. Vào tháng 7/2014, một phe cánh hữu của Quốc hội Ukraine đã giới thiệu một dự luật về việc đổi mới tình trạng hạt nhân của Ukraine – dự luật đã bị bác bỏ. Trước đó vào năm 2009, Nga và Mỹ đưa ra tuyên bố chung rằng các đảm bảo an ninh của bản ghi nhớ vẫn sẽ được tôn trọng sau khi Hiệp ước START hết hạn. Tuy nhiên, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã lần đầu xóa bỏ Bản ghi nhớ Budapest vào năm 2014. Trở lời câu hỏi về vi phạm Bản ghi nhớ Budapest vào ngày 4/3/2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin mô tả tình hình hiện tại ở Ukraine như cuộc cách mạng, nói rằng: một nhà nước mới đã nổi lên, nhưng chúng tôi không ký bất kỳ văn bản bắt buộc nào với nhà nước này. Năm 2014, Borys Tarasyuk, cựu ngoại trưởng Ukraine và là nhà đàm phán của Bản ghi nhớ Budapest, bày tỏ sự thất vọng của mình rằng không chỉ Nga đã vi phạm trắng trợn các cam kết của mình với tư cách là người bảo đảm an ninh quốc gia của Ukraine, mà hai bên ký kết khác – Mỹ và Anh – đã không thực hiện được các cam kết theo bản ghi nhớ.
Liệu đó có đúng thế không, lại là trường hợp gây tranh cãi, vì bản ghi nhớ không nêu rõ cách thức hành động hoặc các biện pháp trừng phạt đối với hành vi vi phạm. Bản ghi nhớ Budapest chỉ bắt buộc các quốc gia hạt nhân, cũng là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tìm kiếm hành động tại Hội đồng Bảo an và triệu tập tham vấn của các bên ký kết. Vào ngày 5/3/2014, các cuộc tham vấn như vậy đã được triệu tập và đưa ra một tuyên bố ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, nhưng Nga đã từ chối tham dự. Hoa Kỳ cũng đưa ra một nghị quyết của Hội đồng Bảo an để phản đối việc sáp nhập Crimea vào ngày 15/3/2014, nhưng nghị quyết này bị Nga phủ quyết và Trung Quốc bỏ phiếu trắng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, có thể hiểu vì sao nhiều người ở Ukraine thất vọng. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ukraine đã phải chịu áp lực giải giáp vũ khí từ cả Nga và Mỹ. Do đó, Ukraine yêu cầu đảm bảo an ninh để đổi lấy việc phi hạt nhân hóa. Hoa Kỳ không sẵn sàng cam kết bất cứ điều gì ngoài sự đảm bảo. Những đảm bảo này có nghĩa là nhắc lại các cam kết trong các văn kiện đa phương khác, chẳng hạn như Hiến chương Liên hợp quốc và Hiệp ước Helsinki 1975. Hoa Kỳ cũng không đáp ứng yêu cầu của Ukraine muốn có các đảm bảo được chính thức hóa trong một hiệp ước ràng buộc pháp lý, và Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn.
Mặc dù Ukraine cuối cùng không thể có được các đảm bảo an ninh mạnh mẽ và ràng buộc về mặt pháp lý mà họ mong muốn, nhưng có vẻ khi đó, không ít người nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ xem cam kết chính trị thực tế cũng to như các nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý. Steven Pifer, một trong những nhà đàm phán của bản ghi nhớ và sau đó là đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine, tin rằng ngầm hiểu trong bản ghi nhớ là cam kết của Hoa Kỳ rằng Ukraine đã ở trong các lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ và sẽ không bị bỏ lại một mình khi đối mặt với xâm lược của Nga. Năm ngoái, đại sứ Ukraine tại Đức, Andriy Melnyk, cho biết Kyiv có thể tìm đến vũ khí hạt nhân nếu nước này không thể trở thành thành viên của NATO. Ông hỏi: Làm cách nào khác để chúng tôi có thể đảm bảo khả năng phòng thủ của mình?. Bộ Ngoại giao Ukraine sau đó phủ nhận rằng các lựa chọn như vậy đang được xem xét.
Tối 21/2, Tổng thống Nga Vladimir Putin có bài phát biểu một giờ trên TV, giải thích các luận điểm của Nga về khủng hoảng Ukraine. Trong bài, ông Putin cáo buộc Ukraine định quay lại vũ khí hạt nhân: Nói cách khác, việc sở hữu vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ dễ dàng hơn nhiều đối với Ukraine so với một số quốc gia khác mà tôi không đề cập ở đây, những quốc gia đang tiến hành nghiên cứu như vậy, đặc biệt nếu Kiev nhận được sự hỗ trợ công nghệ của nước ngoài. Chúng tôi cũng không thể loại trừ điều này. Trong một tuyên bố rạng sáng tại Nga trên truyền hình ngày 24/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố dùng vũ lực với Ukraine và yêu cầu quân đội nước này hạ vũ khí. Trong bài, Putin một lần nữa cáo buộc Ukraine muốn có vũ khí hạt nhân: Hơn nữa, họ đã đi xa đến mức mong muốn có được vũ khí hạt nhân. Chúng tôi sẽ không để điều này xảy ra. Ngay sau bài phát biểu của Tổng thống Putin trên truyền hình, các cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đã bắt đầu.
Alexey Goncharenko, nghị sĩ Ukraine, đặt câu hỏi sau khi Nga phát lệnh tấn công Ukraine hôm 24/2: Ukraine là quốc gia duy nhất trong lịch sử nhân loại từ bỏ kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba thế giới để đối lấy những đảm bảo an ninh của Mỹ, Nga và Anh. Những đảm bảo này ở đâu?. Sáu ngày sau khi phát động chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov nói trong video được phát tại Hội thảo Giải giáp vũ trang tổ chức ở Thụy Sĩ rằng phải hành động để ngăn tham vọng nguy hiểm của Kiev: Chính quyền Kiev theo đuổi trò chơi nguy hiểm liên quan đến kế hoạch sở hữu vũ khí hạt nhân. Ukraine vẫn nắm giữ công nghệ hạt nhân từ thời Liên Xô và những phương thức biến chúng thành vũ khí tiến công.
Trước đó, tại hội nghị an ninh ở Đức hôm 19/2, Tổng thống Volodymyr Zelensky từng cảnh báo Kiev có thể chấm dứt cam kết không sở hữu vũ khí hạt nhân theo Bản ghi nhớ Budapest năm 1994. Cựu bộ trưởng quốc phòng Ukraine Anriy Zahorodniuk bày tỏ hối tiếc về quyết định cách đây gần 30 năm:Chúng tôi đã từ bỏ đi khả năng hạt nhân mà chẳng nhận lại gì.

Nguồn: Lịch sử thế giới hiện đại

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *