Tôi làm tại một bảo tàng tư nhân dành cho giới nhà giàu và người nổi tiếng. Đừng đưa theo con bạn đến đây.
Chapter 2: Không phải chỗ cho trẻ con
Tuần trước, chúng tôi đã có một sự cố, những con bướm thủy tinh kịch độc thoát ra ngoài lồng chứa của chúng.
Tuần này, tôi đứng một mình trong khu triển lãm đại dương.
Con cá lồng đèn liên tục lượn vòng trong vực sâu bể nước đục ngầu, kiếm tìm một lối ra mà nó sẽ không bao giờ thấy. Nó gặp tôi ở một mặt lồng giam cao áp đó, cần đèn phát quang va vào tấm kính. Con cá cười toe toét với những chiếc răng mỏng trắng nhởn. Xin chào, anh bạn nhỏ.
Tôi nán lại khu trưng bày đáy sâu một lúc, quan sát sinh vật kia ngâm mình và dạo chơi trong một thế giới lập phương nhỏ bé. Con cá sẽ chẳng bao giờ biết được vì sao mình lại ở trong bảo tàng, hay là kẻ nào đã giam cầm nó. Thay vào đó, nó bơi. Bơi và bơi và hy vọng một ngày nào đó, tấm kính kia sẽ rạn nứt. Dù chỉ một inch thôi.
May mắn thay, cho con cá ếch bờm xờm ăn không tốn nhiều thời gian. Con cá màu vàng xua đi những đám bụi dưới đáy bể, hối hả chạy trên những chiếc vây giống như chân với dáng vẻ vụng về của một con Golden Retriever già yếu. Thật là khó để giữ được niềm vui khi ở trong bảo tàng ma quái này, nhưng căn phòng đó luôn khiến tôi mỉm cười.
Tôi lên lầu trên, bắt đầu xem qua một số giấy tờ trong vài tiếng đồng hồ. Không rõ mình đã vô tình chợp mắt trên bàn làm việc vào lúc nào, nhưng tôi sớm phải trả giá bằng những cơn ác mộng.
“Con có xinh không, bố?” Một giọng nói trầm bị bóp nghẹt.
Vô số con nhặng xanh trải dài trên khuôn mặt con bé, khuôn mặt được tô điểm bởi mái tóc vàng óng, những đốm cánh đen che kín đôi mắt và miệng.
“Con có xinh không?”
Nghe không hề giống Sophia. Chỉ mỗi khuôn mặt đứa con tôi đã mất, không gì hơn nữa. Hẳn phải khó lắm để nói; những con ruồi bâu kín cổ họng như miếng kẹo cao su thổi – vỡ tung ra và vo ve khi nó cất tiếng.
“Bố ơi? Bố lại ngủ gật đấy à?” Nó cười khúc khích bằng một giọng nói còn chẳng thuộc về mình.
Ruồi bò loạn xạ trên mặt con bé, vo ve, vo ve.
Cho đến khi tôi đập một con đang bò lên tay mình.
Tôi giật mình choàng dậy, rên rỉ, cổ tay ửng lên chỗ tôi tự đánh mình tỉnh giấc; tiền sảnh khổng lồ của bảo tàng vẫn vọng lại một âm vang.
Giấy tờ ngổn ngang khắp bàn lại làm tôi căng thẳng, dễ dàng như cách chúng vừa khiến tôi ngủ gục. Những danh sách thương vong tuần trước, ghi chú về đoàn khách tối nay, những lời khiếu nại – toàn giấy tờ tẻ nhạt. Một tờ tự tách ra khỏi tay tôi và rơi phấp phới xuống tầng trệt từ bàn làm việc ở lầu trên. Khu đại dương và sự thoát ly vô thức khi đang ngủ là cách giải thoát duy nhất của tôi khỏi viện bảo tàng. Tuy nhiên, đó chỉ là trước khi giấc ngủ mang những cơn ác mộng đến.
Khi nhìn đồng hồ, tôi để ý hóa ra mình đã không đập một con ruồi. Một con bướm thủy tinh đã nát vụn thành vô số mảnh cánh trong suốt phủ lấp lánh trên ngón tay tôi. Tôi chà tay, và những mảnh vỡ trong veo nhẹ nhàng rơi xuống cầu thang đá cẩm trong một cơn gió thoảng, như đàn muỗi tí hon hay đám bụi óng ánh lóe lên trong ánh trăng nhỏ giọt qua trần kính. Trong một thoáng, tôi ước nó đã kịp đốt và đưa tôi đến một nơi tốt đẹp hơn. Ít nhất thì khi đó tôi sẽ không phải mơ về một đống nhặng chui ra từ miệng đứa con gái đã mất của mình.
Ron và Jill, cùng với đội bảo trì, đã thu dọn đồ đạc rời đi, không còn tiếng ồn áo náo nhiệt nữa; chẳng còn gì phải làm ngoại trừ ngồi chờ những tên nhà giàu tồi tệ đến. Tôi lại một mình – nhân viên duy nhất trong bảo tàng, và tôi để tâm trí mình tự do lang thang về một thời gian khác. Lúc trước khi tôi làm hướng dẫn viên tham quan.
Đã đến giờ mở cửa. Tôi chải đầu, kéo cổ áo sơ mi ra ngoài áo gile, đánh giày bóng loáng. Đi xuống cầu thang cẩm thạch, bước chân tôi gõ xuống những bậc thang qua lớp bụi con bướm như đèn pha rọi chiếu trong sương mù.
Đồng hồ điểm 6 giờ: tối nay, bảo tàng hiện đã mở và chỉ dành cho những kẻ giàu có đang đợi bên ngoài. Tôi kéo cánh cửa lớn mở, tiếng cọt kẹt vang vọng khắp tiền sảnh khổng lồ.
Bảy tên quý tộc ngạo nghễ sải bước vào trong: ba đàn ông và bốn phụ nữ khoác trên mình những bộ váy và áo khoác lộng lẫy. Một người đàn ông phải mất một lúc để leo hết những bậc thang bằng cây gậy gỗ của mình.
“Chuyến tham quan sẽ bắt đầu ngay bây giờ – có một giá treo áo khoác ở bên trá-“ Tôi bỏ dở câu nói.
Một cô bé – có khi mới tám, chín tuổi, lặng lẽ bước qua cửa trong bộ đồ đen nhỏ xíu. Ánh nhìn rụt rè quét quanh tiền sảnh từ trên xuống dưới, và đôi mắt con bé là những trái cầu lớn bóng loáng.
Nó đáng ra không thể ở đây – không thấy trên sổ đăng ký. Tôi nghĩ thầm. Con bé sẽ chết mất.
Tôi quỳ xuống: “Xin chào, cô bé.”
Con bé bẽn lẽn dựa vào sau khung cửa trước; làn da tái đi như sàn nhà đá cẩm màu trắng ngà. Hẳn đây là đứa trẻ đầu tiên đặt chân đến nơi bị Chúa bỏ rơi này, và vì lý do chính đáng.
“Ai trong số những người ở đây là bố mẹ của cháu?” Tôi cố giữ một nụ cười ấm áp.
Không có gì. Cô bé chỉ nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt long lanh nằm dưới mái tóc vàng.
“Nó không nói đâu, con trai.” Người đàn ông cầm gậy hắng giọng. “Suốt cả chuyến đi đến đây. Cả bây giờ nữa.”
“Thực sự chẳng đáp lại bất cứ điều gì.” Một ả đàn bà mũi khoằm hợm hĩnh treo áo khoác lên giá. “Có khi bị điếc.”
Tôi đứng ngẫm nghĩ một lúc: mặt tôi trầm ngâm thay đổi trong ánh sáng. Nhìn xung quanh bọn tỷ phú trong tiền sảnh, chúng trông đã sẵn sàng để dồn hết tâm trí vào những khu triển lãm, hoặc là thứ tồi tệ hơn. Đưa con bé theo cùng với phần còn lại của nhóm tham quan đơn giản là không thể được.
May mắn thay, tôi được yêu cầu biết căn bản ít nhất hai mươi ngôn ngữ để có thể tương tác phù hợp với khách bảo tàng. Bao gồm cả ngôn ngữ ký hiệu, nhưng sự hiểu biết của tôi khá vụn vặt – tôi thường chỉ có thể hiểu được những từ chính. Quỳ xuống một lần nữa, tôi giao tiếp với con bé bằng tay mình.
Bé gái ra hiệu đáp lại tôi, bố mẹ đã cho cháu đi chơi bảo tàng khi họ được gọi đi Dubai công tác.
“Thế chuyến bay như nào?” Tôi làm dấu.
“Tốt ạ. Bà mũi to cứ làm cháu khó chịu.” Cô gái nhỏ cười khúc khích và ra hiệu rằng tôi không cần dùng tay nữa, con bé có thể đọc hiểu từ môi tôi.
Tôi đã thấy quý cô bé rồi – nụ cười tôi giờ tự nhiên không cần gượng gạo. Dẫu vậy, tôi vẫn bị kẹt với một đứa trẻ ở nơi tàn nhẫn này – như con thỏ chạy rong trên cánh đồng trống, dưới bóng đen móng vuốt đại bàng từ những vật trưng bày. Tệ hơn, sự khát máu và hiếu kỳ chưa được thỏa mãn của những tên nhà giàu.
Tôi bỗng nhớ lại một điều khoản trong hợp đồng lao động: Dẫn một chuyến tham quan vào mỗi buổi tối mở cửa.
Dang rộng hai tay một cách tự tin, tôi đứng dậy và mở một đường thoát cho sự an toàn của cô bé. “Tôi lấy làm tiếc, thưa quý vị.” Tôi thốt lên. “Do nhiều tình huống không lường trước được, chuyến tham quan tối nay đã bị hủy.”
Đám đông rên rỉ.
Điều khoản trong hợp đồng chưa từng nêu rõ tôi phải đưa bao nhiêu người theo cùng.
“Ôi trời. Chúng tôi vừa mới đến mà!” Một người đàn ông gầm lên.
“Đừng bực, bảo tàng này vẫn dành cho các vị tự khám phá.” Tôi giơ một cánh tay hướng về phía triển lãm đáy biển sâu. “Xin vui lòng không đánh thức con cá lồng đèn.”
Tiếng gõ và rít trên sàn vang lên khi đám người đi khuất phía cuối những hành lang. Ánh sao rọi qua cửa sổ, chiếu sáng khuôn mặt cô bé. Nó cười lại rạng rỡ và phấn khích.
“Bây giờ chuyến tham quan có thể yên ổn bắt đầu!”
Tuy vậy, sự bình yên chỉ là lời dối trá. Không bị giám sát, bằng cách này hay cách khác, đám người kia sẽ sớm để lộ bản thân họ còn cư xử tệ hại hơn cả đứa trẻ con trước mặt tôi. Một cách thể hiện rất có thể sẽ liên quan đến cái chết.
“Cháu thích làm gì?”
“Vẽ ạ,” cô bé ra dấu.
“Bác biết ngay một thứ hoàn hảo.”
Nhiều phút trôi qua vào buổi tối hôm đó, khi tôi và cô bé bắt đầu khám phá bảo tàng. Tên nó là Rosie, và con bé rất sợ những cuộc triển lãm rùng rợn. Tại nơi giao nhau của khu trưng bày nghệ thuật với hành lang khác dẫn đến một cánh cửa bị khóa, chúng tôi dừng lại.
“Cái gì dưới đó ạ?” Rosie chỉ một ngón tay nhỏ xíu xuống hành lang tối. “Căn phòng kia với cánh cửa kim loại. Có gì bên trong ạ, bác hướng dẫn viên?”
“Bác nắm rõ trước sau bảo tàng.” Tôi trả lời. “Nhưng phải nói rằng, bác chưa bao giờ đến đó. Đóng chặt kín. Và bác không có chìa khóa.”
“Ồ, được rồi ạ.” Một cái gật đầu hờn dỗi.
Phải, ta biết cảm giác đó.
Tôi nhanh chóng mỉm cười động viên cô bé phấn chấn hơn và dẫn Rosie vào khu nghệ thuật. Cô bé chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy – đôi mắt sáng bừng như có thể thắp lên một ngọn nến.
Trên những bức tường và trần nhà cao vút là vô số cơn sóng cát dập dờn, chúng rít lên mỗi khi cuộn xoay, biến đổi. Trong một khắc, những bức tường vẽ lên một tấm bích họa “Đêm Đầy Sao”, những làn sóng cát xanh và vàng uốn lượn, luân phiên giữa nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Khoảng tường bên trái chúng tôi hiện lên bức “Tiếng Thét”. Rosie xòe tay dưới dòng thác đang tuôn, cát chảy qua ngón tay như thể cô bé vừa bốc một nhúm muối.
“Thật lộng lẫy!” Cô bé làm dấu, há hốc miệng nhìn trần nhà.
Tôi gõ nhẹ vào vai để con bé có thể đọc môi tôi. “Không chỉ có mỗi vẽ tranh tường đâu, hãy xem những thứ này nữa.”
Đặt một tay dựa lên chiếc tủ kính nhỏ, chúng tôi nhìn vào. Hai chiếc giày rực rỡ được đặt trên một tấm lụa trắng ngà, óng ánh trên nền tường cát đầy màu sắc đang biến đổi. Chúng lấp lánh vừa đủ để vẫn khoe ra được bản chất pha lê trong suốt. Bên dưới tủ kính ghi: NHỮNG VŨ CÔNG LÓNG NGÓNG.
Rosie không ấn tượng mấy, cho đến khi tôi vỗ mạnh vào tủ.
Tiếng động bỗng khiến đôi giày trống không bừng sống, gõ và nhảy múa trên tấm lụa bên dưới chúng. Điệu nhảy này, và lại điệu khác; rồi lại chuyển thành một cái xoay mình. Chúng kết thúc điệu tango duyên dáng với động tác moonwalk nổi tiếng.
“Wow, chúng là thứ gì ạ?” Cô bé chống hai tay vào tấm kính ngăn. Chỉ gần hơn một xíu nữa, hai cái giày đã có thể đá vào con bé rồi.
“Chà, một số người có thể hát hay. Với một giọng ca tuyệt, tuyệt vời.” Tôi lấy mảnh vải sa tanh ra và bắt đầu chà bóng mặt kính. “Một số người thì có nhịp điệu cho những bước nhảy sâu lắng. Đôi giày này ngay đây: Chúng thu hẹp khoảng cách đấy.”
Rosie mắt mở to nhìn tôi chăm chú. Lắng nghe bằng đôi mắt, đảm đương trách nhiệm cho hai tai không nghe thấy gì.
“Chúng được phát triển vào khoảng giữa những thập niên thứ sáu và bảy. Chống đỡ những ca sĩ không biết nhảy trở thành những ngôi sao nổi tiếng, bằng cách ban cho họ khả năng khiêu vũ.”
Tôi chỉ cô bé đến chỗ trưng bày cạnh một dòng thác cát. Trong một thoáng, tôi bắt gặp một tia lấp lánh sáng lên trong đôi mắt đó, mái tóc và nụ cười rạng rỡ khiến tôi nhớ đến cô con gái thân yêu đã khuất, lấp đầy trong tôi một hơi ấm đã bị lãng quên từ lâu. Ta cá là ta đang vui hơn cháu, Rosie.
Cô bé ngồi xuống. “Đây là gì ạ, bác hướng dẫn viên?”
Ở mặt bàn phía trước, một cây bút nhỏ màu trắng nằm trên một bia đá lốm đốm than chì và tro. Khi tôi chỉ vào đường viền mỏng của phiến đá màu đen, Rosie nhận ra tấm biển vàng dài ghi chữ ĐÁ ĐẦU BÚT. Cô bé xoay người nhìn tôi, háo hức chờ đợi.
“Thử đi, cháu sẽ thấy.” Tôi gật đầu và Rosie quay lại. Tay cô bé nắm lấy cây bút, và nó chạm vào phiến đá với một tiếng ‘tap’.
Đột nhiên, bức tường cát vỡ ra một màu trắng nhạt, lưu lại những đốm cát màu hồng đào lấm tấm, khiến nó có cảm giác như một bức tranh nghệ thuật chứ không phải một tờ giấy thông thường.
Khi tay cô bé xoay bút trên mặt đá, những vòng cát tròn đen hình thành và xoáy trên mặt tường đang chảy xiết.
“Vẽ gì đó đi, Rosie.” Tôi lên tiếng. “Phiến đá sẽ biết cháu muốn vẽ gì, và nó sẽ hướng dẫn cháu.”
Ban đầu cô bé lắc lắc mái tóc vàng vài lần do dự. Một kẻ cầu toàn khi mới tám tuổi. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhếch mép khi tưởng tượng con bé sẽ xắn tay áo lên để bắt đầu làm việc. Tôi bật cười khi nó làm thế thật.
“Kia là bác à?” Tôi thốt lên, nhìn chằm chằm vào bức tường cát. Một người đàn ông với mái tóc nâu nổi lên trên tấm vải nền đang chuyển động, mặc một chiếc áo gilê màu hạt dẻ cực kỳ bảnh bao. Chắc hẳn là mình.
Bức vẽ vượt quá khả năng của một đứa trẻ tám tuổi, một chút, và chúng tôi cần cảm ơn cây bút và phiến đá vì điều đó. Dẫu vậy, con bé đang thể hiện rất đẹp.
“Ồ!” Tôi nói. “Trông tuyệt lắm, Rosie.” Tôi hoàn toàn tập trung khi cô bé bắt đầu vẽ một hình khác. “Và giờ ai đang ở cạnh bác vậy?”
Trên mặt cát của bức tường cao chót vót phía trước, một hình thù kỳ quái xuất hiện cùng những đốm màu đen lớn nở ra. Trông thân thuộc, nhưng cũng thật khiếp sợ. Những chiếc móng sắc nhọn ma quái trồi ra khỏi cánh tay gầy gò, đen đúa của nó.
“Rosie?”
Chẳng có gì. Con bé tiếp tục nguệch ngoạc không biết mệt vào mặt đá.
Thứ đó lù lù sau hình vẽ tôi trong bức tranh trên tường, dòng cát vẫn tuôn, sinh vật kia mờ mờ, thấp thoáng, ẩn hiện. Một hoạt ảnh ghê tởm. Một bộ hàm quỷ quái treo lơ lửng cuối chiếc cổ dài kinh hãi.
“Rosie!”
Nó nuốt trọn đầu tôi, những chiếc răng mỏng cắt qua cái cổ được vẽ bởi trẻ con, cát đỏ phun ra và văng xuống sàn bảo tàng, nhuộm đỏ áo Rosie như một cơn mưa máu.
“Rosie!” Tôi chộp lấy tay con bé. “Cháu đang vẽ cái quái gì vậy?”
Cô bé trừng trừng nhìn tôi, hai mắt long lanh như sắp khóc. “Không phải cháu,” nó làm dấu.
Tôi nhấc con bé ra khỏi ghế và đặt nó xuống sàn nhà lấm tấm cát đỏ.
Rosie quay mặt vào tường và chỉ bức tranh con bé mô tả tôi. “Nhìn kìa, kia là bác.”
Tim tôi đập loạn nhịp. Là bảo tàng khiến nó vẽ thứ này à?
“Và,” Tay con bé run rẩy từ từ lướt sang bóng đen.
“Đó là ngài ngái ngủ.”
Tôi thấy buồn nôn. Tôi đã rất cố để giữ con bé tránh khỏi sự hỗn loạn, nhưng bảo tàng đã chơi lại một vố.
“Đi với bác.” Tôi nghiêm khắc nói, và cô bé nắm lấy tay tôi.
Chúng tôi đi nhanh xuống tầng dưới, đến triển lãm rừng trong nhà. Tôi phải giữ Rosie an toàn, không được có rủi ro bất ngờ nào nữa. Khi chúng tôi rời đi, ngài Ngái ngủ quay đầu lại nhìn tôi chằm chằm, hốc mắt trống rỗng đầy cát kinh hoàng. Tôi không nói gì với con bé.
Chúng tôi thấy một vài tên khách lác đác dọc đường. Họ rống lên cười và la hét. Tôi dẫn Rosie theo sát, nắm chặt tay cô bé.
Được một thời gian, mọi thứ đã yên tĩnh hơn trong căn phòng rừng. Tôi giải thích rằng một phần của căn phòng là chuồng chim và trấn an cô bé, những con chim vẫn nhận được ánh sáng mặt trời qua trần kính vào ban ngày.
Tuy nhiên, tối nay chỉ có ánh trăng xuyên xuống khu rừng trong nhà của bảo tàng. Rosie và tôi giẫm phải vỏ cây vỡ răng rắc trên mặt đất khiến vài con chim giật mình khi chúng tôi tiến sâu hơn.
“Yên lặng nào, Rosie.” Lần này, tôi ra hiệu.
“Vâng ạ, chúng ta phải giữ yên lặng.”
Tôi chỉ vào một vật trưng bày bên cạnh, nằm giữa hai cái cây được cắt tỉa cẩn thận. Khá tối, nhưng chúng tôi cũng nhìn ra hình dạng một người ở bên trong.
“Cái cây đó trông giống một người đàn ông.” Cô bé làm dấu.
“Bởi vì nó đúng là vậy.” Mắt con bé sáng lên khi tôi thì thầm, tay vẫn nắm chặt tay tôi. “Một thử nghiệm thất bại; chúng ta đặt ở đây để nó có thể ngủ được. Ông ấy không còn là con người, không còn nữa. Đánh chén từ gốc rễ của mình, hay là bất cứ ai ngu xuẩn dám lại gần.”
Không một âm thanh trong khu rừng nhà kính tăm tối, chỉ có tiếng lá lạo xạo cô bé đi tới áp mũi vào tấm kính với một tiếng rít.
“Rosie,” tôi thì thầm. “Đừng mất trật tự quá.”
“Ông ấy tên là gì ạ?”
“Không có tên,” tôi nhẹ nhàng kéo con bé ra khỏi vật trưng bày. “Tuy vậy, vài người khách gọi nó là con ma ngủ gật. Khá là vô hại. Thế nhưng một lao công tội nghiệp đã ngủ quên ở đây, vào một trong những đêm dài như này. Rồi mãi mãi không tỉnh dậy nữa.”
Tay Rosie siết chặt quanh tay tôi.
“Người ta nói ông ấy ăn con người thông qua những giấc mơ.” Tôi thì thầm. “Và nếu quá mệt mỏi, cháu còn không cần phải ngủ để cảm thấy điều đó xảy ra.”
Đó là tất cả những gì tôi nói – cô bé kéo tay tôi đi vội ra cửa. Xin lỗi vì đã làm cháu sợ, Rosie.
Khi đi gần đến cửa sau, vài con bướm xanh dương bay dập dờn đến đậu trên mái tóc con bé. Nó đang chuẩn bị nhấc một con đặt lên ngón tay tôi thì tiếng lá vỡ vụn vang lên từ phía sau.
Một tên nhà giàu tồi tệ đã tìm ra chúng tôi. Hắn đang mò mẫm trong bóng tối, hai tay với ra trước chẳng thể nhìn thấy gì. Tay hắn chạm phải chiếc tủ chứa gã người-cây, thằng ngu đó trượt ngón tay trên mặt kính nghe như một tiếng còi rít lớn.
Không báo trước, hắn đập tan tủ kính, phá lên cười khằng khặc khi chạy ra khỏi khu rừng và trở lại hành lang.
Rosie giãy, cố thoát khỏi tay tôi để chạy nhưng vô ích.
“Không sao đâu, Rosie. Cửa sau, chúng ta đi thôi.”
Chúng tôi chạy nhanh qua những tán cây, giẫm vỡ vỏ khô và đánh thức nhiều con chim khi chúng tôi chạy, và chạy.
Cánh cửa chuồng chim vang lên một tiếng ‘clack’. Ai đó đã nhốt chúng tôi.
Tôi vặn tay nắm cửa rỉ sét trong vô ích. Ban đầu, chốt khóa thu vào, nhưng ngay sau đó cửa đột ngột dừng lại khi va phải thứ gì. Khe rộng hẹp đến mức tôi thề mình không thể nhét vừa vài ngón tay.
“Ngài ngái ngủ.”
“Ngài ngái ngủ đang đến rồi.”
“Có cái gì đó đang chặn cửa.” Tôi càu nhàu.
Đột nhiên, con bé đấm vào chân tôi vài phát như búa bổ.
Rồi liên tục dộng vào mặt bên chân tôi. Rosie hờn dỗi, vẻ mặt lo lắng hướng về phía cái cây nhân tạo, trước khi dúi đầu vào ống quần đen của tôi để trốn một thứ gì khủng khếp.
Đằng xa giữa những thân cây, nó sừng sững với da thịt dị thường cháy đen như một khúc gỗ mục. Miệng há hốc lỏng lẻo và mở to ma quái, và đôi mắt trống rỗng một màu trắng rã. Thứ đó đang theo dõi chúng tôi.
“Rosie-“ Tôi ôm vai cô bé. “Rosie. Không sao đâu, ông ta không bắt được chúng ta đâu.”
Cô bé ngước lên với đôi mắt long lanh.
“Quái vật.” Rosie ra hiệu.
“Nó không thể chạm vào nếu chúng ta không buồn ngủ.” Tôi nói. “Cố tỉnh táo nhé?” Tôi trao con bé một cái nhìn ấm áp, nhưng nó nhanh chóng rạn nứt.
“Ngài ngái ngủ.”
Chúng tôi nhìn nhau, đến khi con bé không thể nữa và ánh mắt nó thả rơi xuống nền đất.
“Rosie. Bác muốn cháu bình tĩnh khi trả lời câu hỏi của bác, được chứ?” Tôi phải cân bằng giữa nhìn con bé và để ý thứ trong rừng cây.
Rosie sụt sịt rồi gật đầu.
“Cháu có ngủ nhiều trên chuyến bay đến bảo tàng không?”
Mắt tôi lướt đến những chuyển động ở sau lưng. Những rễ cây thâm đen ở nơi đáng ra phải là chân, di chuyển nặng nề bên dưới con quái như một gốc sồi chưa bật rễ. Mỗi bước đi chậm chạp khiến thân nó co lại, một tiếng ‘crack’ kinh khủng vang lên nghe như xương bị gãy và vặn xoắn. Miệng nó đã há rộng từ bao giờ, đủ rộng để nhét vừa cái đầu xinh đẹp, đứt lìa của Rosie vào trong.
“Rosie. Cháu đã ngủ chưa?”
Crack.
“Rosie.”
Crack. Crack.
Như một cơn ác mộng, tôi thấy những con nhặng bò lổm nhổm trên mí mắt và khóe miệng cô bé, giống đứa con gái Sophia đã chết của tôi. Con có xinh không, bố?
Tôi bừng tỉnh khỏi nó. “Rosie, làm ơn!” Tôi gào lên, lay con bé.
Crack. Crack. Crack. Crack. Crack.
Tôi phải đưa nó ra ngoài. Tôi không thể để mất con bé. Không một lần nữa.
Tôi bật dậy khi đang quỳ gối, đặt Rosie lên vai và lao về một cánh cửa khác. Đầu con bé nảy loạn xạ khi tôi chạy, nhưng khi bĩnh tĩnh lại, chúng tôi nhìn ra con quái vật. Ở gần đó, cách có hai mươi bước. Thân nó quẫy lên với một vết nứt rời theo hướng vuông góc với cơ thể.
“Bám vào!” Tôi báo hiệu khi ôm Rosie vào ngực. Tôi giơ một chân và đá vào cánh cửa. Những câu chửi thề trong tiếng thở của tôi cũng không thể át được âm thanh ghê sợ phía sau. Tôi chỉ có thể nghĩ được là phải đưa Rosie ra ngoài, và bước đi của thứ kia nghe như tiếng ủng giẫm nát ốc sên.
“Vào đi!” Tôi hét, và đôi giày con bé rơi xuống đất.
Lần này, tôi nhấn cú đá khi giày chạm vào cửa. Tôi không thể mở nó đủ rộng cho bản thân, nhưng đạp mạnh vào khiến cánh cửa mở ra cót kẹt, đủ để cô bé lách vào. Trong một tích tắc, tôi lo về những tên nhà giàu bên ngoài và trong những hàng lang. Một cơn ác mộng dài không hồi kết.
Cuối cùng tôi cũng đẩy được qua.
Những tên đang chặn cửa chạy tán loán như bầy gián dưới ánh đèn. Chúng cười sặc sụa điên cuồng khi chạy vào các hành lang.
“Tí thì tóm được cậu!” Một gã phá lên cười lúc vòng qua một khúc cua, giọng hắn bé dần khi chạy càng ra xa.
Chúng không thể tiếp tục trốn chạy khỏi việc này. Chúng không thể tiếp tục hành hạ tôi và bảo tàng cho những trò giải trí bệnh hoạn.
“Chờ bác ở đây.” Tôi nói với Rosie. Cô bé co rúm như một quả bóng trên sàn, lắc lư và nức nở.
Tôi đứng thẳng dậy bằng hai chân và đuổi theo.
Gã nhà giàu chạy và chạy, hai tay khua khoắng vào tường hành lang chật hẹp, hai bên đều là nhà kính bảo tàng.
Mày suýt giết Rosie.
Tôi phóng hết tốc lực và gần như đã đuổi kịp hắn. Gần như đã trong tầm tay.
Đừng cố chạy nữa.
Chân hắn vấp vào nhau trong một bước sải dại dột. Hắn ngã nhào vào một bên tường rồi tự đẩy mình bật khỏi đó, và va phải tường bên kia, kính vỡ tan và hắn lăn nửa người vào nhà kính.
Kính mắt hắn đã rơi, máu chảy và trào xuống da đầu khi hắn treo lơ lửng trên những mảnh khung cửa vỡ. Ánh sao tràn vào nhà kính và phủ khuôn mặt hắn một màu xanh lục.
“Cứu ta…” Hắn cục cằn van nài. Một tay đưa chấp chới về phía tôi, mong được kéo khỏi tấm kính vào nơi an toàn.
Ở bên trong, Holly – cây bẫy ruồi Venus của nhà kính, với cái miệng đủ chứa một người đàn ông – vặn vẹo và lấp ló trong ánh sáng ban đêm. Một loài thực vật to lớn, xinh đẹp. Và đói khát.
Đầu hẳn ngoảnh về sau và nhìn thấy cái cây. Hắn cố vặn người luồn lách, gắng thoát khỏi tấm kính đâm xuyên cơ thể.
Tôi vươn một tay ra ngoài để đỡ hắn dậy, rồi lại dừng lại.
Nụ cười Rosie bừng lên trong tâm trí tôi như thép nóng chảy. Con gái tôi Sophia, cũng có nụ cười đó. Một nụ cười hắn muốn tước đoạt.
Tôi thu tay lại.
“Đưa ta ra khỏi đây!” Gã kia gằn giọng. “Nhanh lên!”
Tôi trừng mắt nhìn hắn không chớp. Và thế là hết.
Với một cú lướt nhanh, Holly nuốt gọn thân người hắn, những ngón tay lông lá màu xanh lục từ miệng siết chặt cơ thể hắn như một dải băng làm từ rêu.
Hợp đồng lao động đã bị phá vỡ. Và tôi sẽ bị trừng phạt mất.
Vô số giọt nhờn đặc sệt chảy ra từ miệng cây bẫy ruồi, những mảnh cánh tay và chân văng ra khi nó nhai ngấu nghiến.
Khi quay lại chỗ Rosie, tôi nắm tay cô bé chặt hơn, chặt hơn tôi đã từng nắm cả buổi tối trước đó. Tôi nắm và nắm bàn tay đó suốt đêm, mãi tận khi xe đón con bé đến sân bảo tàng.
Thường thì phần lớn thiệt hại là những tấm kính vỡ tan tành và các vật trưng bày trốn thoát, và tôi quét dọn suốt vài tiếng đồng hồ.
Khi mọi người đã về hết, tất cả những gì còn lại tôi cần làm là ngồi ở bàn lễ tân, và chờ bình minh ló dạng. Hợp đồng đã bị vi phạm – tôi vừa để một người khách chết dưới tay mình. Những người đó thật đáng khinh, tôi cho là vậy, nhưng tên kia thì phải chết.
Hơi ấm Rosie từng ôm tôi, siết tôi thật chặt, tan dần đi sau hàng giờ bảo tàng im ắng. Mọi thứ lại trở nên lạnh lẽo.
Bố nhớ con gái bố. Bố xin lỗi vì đã không thể bảo vệ con như Rosie.
Tuần sau sẽ lại có nhiều tên khách giàu có hơn đến hành hạ tôi, và chẳng có lối thoát nào. Tôi nghĩ về khu triển lãm đại dương mình đã ghé qua trước đó. Tôi và con cá lồng đèn chẳng khác gì nhau cả.
Bố yêu con, Sophia.
Tôi đổ sụp ra bàn, người gục xuống, bầm dập. Tựa đầu vào hai tay khoanh lại, tôi sẵn lòng để giấc ngủ xâm chiếm.
Bố mong sẽ không mơ thấy con, cô gái của bố. Bố không muốn thấy những con nhặng nữa đâu.
Chẳng có gì xảy ra suốt một lúc.
Và rồi, một điều khá kỳ lạ.
Lần đầu tiên sau 15 năm, điện thoại bảo tàng đổ chuông.
_____________________
Bạn có thật sự vi phạm hợp đồng không nhỉ, tại vì chuyến tham quan đã bị hủy, và chỉ có Rosie là “vị khách” duy nhất?
_____________________
u/theletterQfivetimes (58 points)
Kia có thực sự tính là vi phạm hợp đồng không? Ông không giết tên kia, chỉ là ông đã không cứu hắn thôi.
>u/emorybored (30 points)
Cùng suy nghĩ. Vụ này thì khác gì trường hợp bức tường sống?
>>u/Eeveelover14 (14 points – x1 starstruck)
Tôi cũng sẽ nói vậy. Bức tường sống là ngay tức khắc, chạm vào nó sẽ định đoạt luôn số phận người đó nên hợp đồng sẽ phản ánh lại điều này. Đó là lựa chọn của chính họ, nên ông sẽ không bị trừng phạt.
Còn vụ lần này là lựa chọn của OP, một sự không hành động khiến người đàn ông kia chết. OP có thể trợ giúp và cứu người, nhưng ông ta đã không làm vậy.
_____________________
u/TheKurosawa (26 points)
“Tuần trước, chúng tôi đã có một sự cố, những con bướm thủy tinh kịch độc thoát ra ngoài lồng chứa của chúng.”
Tôi- ông- đó hoàn toàn không phải thứ tệ nhất đã xảy ra tuần trước, anh bạn à.
_____________________
Dịch bởi NPWL
