Bạn sẽ hình dung về ai khi người khác nhắc đến “người nắm rõ về các cơ sở bí mật của chính phủ”?
Các bạn hẳn sẽ tưởng tượng đến những người lính canh gác các dự án tuyệt mật hoặc các nhà khoa học đeo mặt nạ sẵn sàng mổ xẻ người ngoài hành tinh hay gì đó đúng không. Không trách các bạn được – phim ảnh và trò chơi điện tử đã tiêm nhiễm vào đầu chúng ta quá nhiều thứ như thế rồi.
Nhưng hãy để tôi hỏi bạn thêm một câu thế này nhé – sẽ có bao nhiêu nhà khoa học hay binh lính chịu cầm cây lau nhà và xô đi dọn dẹp nhà vệ sinh cùng hành lang sau một ngày làm việc mệt mỏi? Tôi cá là con số đó chắc chỉ đếm trên đầu ngón tay là cùng.
Và đó chính là cách tôi có được công việc này – người lao công được trả lương cao nhất thế giới.
Tên tôi là Robert nhưng mọi người hay gọi tắt là Robb. Tôi đã dành suốt hai mươi năm cuộc đời mình chỉ để làm việc tại một căn cứ quân đội chính quy, trước khi cấp trên nhận ra rằng tôi có thể giữ mồm giữ miệng khá tốt và họ đã quyết định đưa tôi đến…ừm, bất cứ nơi nào mà tất cả chuyện này xảy ra.
Trước khi được giao việc, tôi đã kí đủ các thoả thuận không tiết lộ thông tin để chôn vùi mình dưới nùi công việc tại nơi này. Ngay sau đó, họ chở tôi đến bất-cứ-nơi-nào tôi làm việc bằng một chiếc xe tải không có cửa sổ để đảm bảo rằng tôi sẽ không bao giờ có thể tìm thấy cái chốn chết tiệt đó.
Chốn địa ngục với tất cả mọi bí mật trên đời. Đám người thuê tôi đã phá hỏng mọi thứ và tôi gần như đã phải trả giá cho chính sự thất bại của họ. Mọi người cần phải biết chuyện gì đã xảy ra.
Vậy nên, bắt đầu nhé.
Hôm đấy là một ngày yên tĩnh. Tôi vẫn miệt mài với công việc của mình như thường lệ, lau sàn trong phòng máy tính thuộc một tầng nào đó của cơ sở. Khu phức hợp này nằm sâu dưới mặt đất và càng xuống sâu thì bạn sẽ càng tiếp xúc với nhiều giao thức và bí mật. Tuy nhiên, ở các tầng gần gần thì cuộc sống vẫn như bình thường giống bên ngoài thôi.
Chúng tôi thậm chí còn được trò chuyện với nhau một chút. Vì vậy nên trong một lần tình cờ trò chuyện với một trong những nhà khoa học máy tính, tôi đã làm quen được với một thanh niên khoảng 30 tuổi tên Peter. Tôi cũng có hỏi về lí do tại sao cậu ấy lại chọn làm việc ở đây.
“Ở trường đại học, họ gọi tôi là thần đồng lập trình.” Peter nói với tôi. “Nó đã ăn sâu vào đầu tôi và tôi bắt đầu làm một số chuyện sai trái với những kĩ năng mà mình học được. Cuối cùng thì rơi vào phá sản và những-kẻ-ở-trên buộc tôi phải đưa ra lựa chọn. Một là làm việc cho họ còn hai là bị tống vào nhà tù an ninh tối cao.” Cậu ấy nhoẻn miệng cười. “Giờ thì anh biết câu trả lời rồi đấy.”
“Thế cậu có bao giờ hối hận về lựa chọn của mình không?” Tôi cười toe toét đáp lại.
“Ồ, mọi lúc luôn ấy chứ.” Cậu ấy vẫn cười. “Nói cho vuông thì nơi này có khác mẹ gì cái nhà tù đâu, ngoại trừ việc tôi phải bục mặt ra làm này làm kia suốt ngày.” Cả hai chúng tôi đều bật cười.
“Dù sao thì cậu đang làm cái gì vậy?” Tôi hỏi mặc dù thừa biết rằng mình sẽ không nhận được một câu trả lời có ý nghĩa gì cho cam. Thứ nhất, tôi biết việc tiết lộ về công việc của mình cho người khác là điều cấm. Thứ hai, những người làm ở tầng này đều không thật sự biết họ đang làm cái gì cả. Không ai được phép nhìn thấy bức tranh lớn mà họ đang miệt mài ghép mỗi ngày – họ chỉ nhận nhiệm vụ, hoàn thành chúng rồi gửi tác phẩm đã hoàn thành xuống dưới thôi.
Peter nhếch mép. “Giá mà tôi biết tôi đang làm cái quần què gì đấy, Robb. Tôi chỉ lập trình mọi thứ rồi gửi nó xuống “hố” thôi. Hiện tại thì tôi đang phải hoàn thành chương trình mô phỏng sự lan truyền bức xạ nhưng chuyện sẽ dễ dàng hơn rất nhiều tôi biết nó là cái quái gì. Hay mục đích khùng điên gì đó chẳng hạn.”
Cả hai chúng tôi đều bật cười. Hài hước là cách tốt nhất để đối phó với thực tại cùng công việc của chúng tôi ở đây.
“Còn anh thì sao?” Peter hỏi. “Về bất kì dự án tối mật nào mà anh đang làm việc cho-“
Không một tiếng cảnh báo trước, đèn trong phòng đột nhiên nhấp nháy và tối đi ngay trong một giây trước khi lại tiếp tục nhấp nháy.
Tôi bối rối nhìn quanh. Trong suốt những năm tôi làm việc ở đây, năng lượng chưa bao giờ hỏng hóc gì cả – chưa một lần. Các lập trình viên hét lên đầy thất vọng rồi đập bàn và chửi bới về tất cả tập tin mà họ chưa kịp lưu.
Peter nhìn tôi với vẻ mặt lo lắng.
“Chuyện gì vừa xảy ra vậy, Robb?” Cậu ấy hỏi.
“Tôi cũng không biết nữa.” Tôi trả lời. “Có lẽ chúng ta nên-“
Tôi nhăn mặt lại khi bị cắt ngang bởi hệ thống và tiếng còi thông báo vang lên.
Một giọng nói vang vọng khắp căn phòng, dù chắc nịch nhưng vẫn còn pha lẫn chút hoảng sợ.
“Tất cả nhân viên hãy sơ tán ngay lập tức. Đây không phải là một cuộc diễn tập. Tôi nhắc lại. Đây không phải là một cuộc diễn tập. Hãy tiếp tục di chuyển đến các trạm sơ tán và-“
Hệ thống thông báo bỗng im bặt và tiếng rè rè thường thấy quay trở lại. Người thông báo đột ngột tăng tốc độ nói và vẻ bình tĩnh của anh ấy đã bị sự hoảng loạn chiếm toàn quyền kiểm soát. Thật lòng mà nói thì giọng anh ấy lúc này nghe như đang hét lên vậy.
“Không được sử dụng máy tính. Không được sử dụng các thiết bị. Không-“
Giọng nói lại đột ngột im lặng. Đèn trong phòng lại đột ngột tắt và phải mất vài giây sau mới chớp nháy trở lại.
Các nhân viên nhìn xung quanh, khuôn mặt họ chỉ độc duy nhất một vẻ bối rối và sợ hãi. Peter nhìn tôi với nét lo lắng hằn rõ trên khuôn mặt.
“Chuyện gì vậy, Robb?”
“Tôi không biết.” Tôi trả lời. “Tuy nhiên, có lẽ chúng ta nên nhanh chóng di chuyển thôi. Đến trạm sơ tán cho tầng này ở căn tin.”
Chúng tôi rời khỏi phòng cùng vài nhà nghiên cứu khác nhưng chỉ đi được vài bước thì hệ thống thông báo lại kêu lên lần thứ ba, và cũng chính là lần cuối cùng. Lần này là một chất giọng của người máy, vô cảm và kì quặc vang vọng khắp phòng.”
“Giao thức mạng bảo vệ 3-Alpha-7, khởi động trong 30 giây.”
Có một thoáng im lặng bao trùm lên tất cả mọi người. Sau đó, sự hoảng sợ bắt đầu lan rộng. Các nhà khoa học và lập trình viên chen lấn, cố gắng tiếp cận cánh cửa dù không biết chuyện gì đang xảy ra nhưng trong họ lúc này chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng cùng mong muốn thoát khỏi đây.
Peter đã bình tĩnh hơn nhưng vẫn hỏi. “Chuyện gì đang xảy ra vậy, Robb?” Cậu ấy nói với sự hoảng sợ dần lấn át. “Giao thức mạng bảo vệ 3-Alpha-7 là cái gì vậy?”
Tôi không chắc nhưng lòng tôi đã nổi lên nghi ngờ. Mỗi ống dẫn khí ở tầng này đều được làm bằng một ống kim loại dày và điểm kết thúc là một bộ phận phân tán hình khối trên mỗi lỗ thông hơi.
3-Alpha-7 có nghĩa là khí đốt.
Tôi nắm lấy vai Peter.
“Chạy ngay! Lối này!”
Chúng tôi rời khỏi phòng và chạy dọc hành lang. Đầu óc tôi quay cuồng khi cố gắng nghĩ tới bất cứ thứ gì có thể cứu chúng tôi thoát khỏi tình huống oái ăm này. Nơi nào thì mới an toàn? Ống dẫn khí ở khắp mọi nơi – mỗi phòng đều có một cái.
Mỗi phòng…
“Đến thang máy chuyên dụng!” Tôi hét vào mặt Peter. “Nhanh lên!”
Chúng tôi chạy nhanh xuống hành lang về phía thang máy. Chúng tôi còn bao nhiêu thời gian? 20 giây? 10 gây? Hay ít hơn?
Một sự may mắn mù quáng nào đó đã cứu chúng tôi. Khi chạy đến, cả hai liền may mắn thấy một thang máy đang đợi sẵn ở tầng của chúng tôi. Cả hai nhảy vào trong và thở hồng hộc khi cánh cửa đóng sầm lại. Tôi nhanh chóng cởi quần yếm và áo sơ mi của nhân viên dọn vệ sinh và nhét chúng vào đường lằn nhỏ nơi nối hai tấm kim loại của cánh cửa.
“Cái…quái gì..đang xảy ra vậy?” Peter thở hổn hển.
“Chịu.” Tôi trả lời. “Tôi nghĩ rằng các căn phòng có thể sẽ ngập trong một số loại chất khí gây tê liệt thần kinh nào đó.”
“Cái gì? Tại sao? Tại sao họ lại làm thế?”
Tôi định trả lời nhưng ngoài cửa phát ra một âm thanh khiến tôi lạnh sống lưng.
Tiếng rít gió của khí thoát ra.
Chúng tôi chờ đợi, gần như là không dám thở. Những tiếng kêu cứu và la hét vọng qua cánh cửa như bị bóp nghẹn, không thể nhầm được. Họ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ nghìn thu và sự im lặng lại một lần nữa bao trùm lấy toàn bộ sơ cở.
Chúng tôi run rẩy trong thánh địa nhỏ của mình. Peter bắt đầu thở gấp, trên bờ vực của một cơn hoảng loạn.
“Cái quái gì, cái quái gì, cái quái…”
Tôi nắm lấy vai cậu ấy và cố nén nỗi sợ hãi của mình xuống.
“Nghe tôi này, Peter. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nhưng chúng ta không thể chôn chân ở đây mãi được. Cánh cửa và mớ quần áo đó của tôi không thể giữ chân đám khí đốt đó quá lâu đâu.”
Những nhịp thở gấp gáp của Peter như chậm lại, tạ ơn trời. Tôi cũng đang trên bờ vực tan vỡ nhưng chúng tôi cần phải giữ bình tĩnh nếu muốn sống sót quá bất cứ điều gì sắp đến.
“Nếu các giao thức mạng bảo vệ được kích hoạt…” Peter bắt đầu. “Đồng nghĩa với việc lối vào cơ sở cũng đã bị khoá. Chúng ta không thể thoát ra theo cách đó được.”
“Đụ má.” Tôi lỡ miệng chửi thề, “Thế làm cách nào mới thoát khỏi cái chốn ma chê quỷ hờn này mới được?”
“Hiện giờ chúng ta đang ở tầng 3.” Peter nói. “Tôi từng làm một số công việc tại tầng 6, cách chúng ta 3 tầng. Ở đó có một phòng điều khiển với máy tính truy cập vào khá nhiều hệ thống của toàn bộ cơ sở. Có lẽ tôi có thể dùng nó để mở khoá.
Tôi thoáng dừng lại một giây để xem xét các lựa chọn của mình. Tôi không biết giao thức mạng bảo vệ nào đã được ban hành ở tầng 6 – không có ống dẫn khí ở đó nên không thể là khí được.
“Cậu nói phải. Đi thôi.”
Tôi nhấn nút lên tầng 6 nhưng thang máy vẫn giữ nguyên vị trí. Tôi thầm nguyền rủa.
“Chắc khoá bảo vệ cũng đã vô hiệu hoá chúng.” Peter nói. “Có vẻ như chúng ta mắc kẹt ở đây thật rồi.” Cậu ấy cười mỉa mai. “Với tất cả những năm tháng dí đầu vào lập trình và hack mà giờ tới cái thang máy cũng không xử lí nỗi.”
Một ý tưởng loé lên trong đầu tôi.
“Chúng ta không cần phải làm cho nó hoạt động.” Tôi bắt đầu ngập ngừng. “Chúng ta chỉ cần chui vào trục. Sau đó thì có thể dùng dây thang máy để leo xuống tầng 6.”
Peter nhìn tôi với vẻ bối rối. Thay vì trả lời, tôi với tay lên, trượt tấm trần sang một bên và để lộ cửa ra vào. Bạn tôi khẽ huýt sáo.
“Có vẻ như tôi chọn sai nghề rồi, Robb. Các nhân viên dọn vệ sinh ngày nay hình như đang đánh bại các lập trình viên mất rồi.
Với sự hỗ trợ từ Peter, tôi mở được cửa sập, để lộ một cái trục dài được chiếu sáng bằng ánh sáng đỏ. Chui ra khỏi thang máy, tôi kéo cậu ấy lên theo sau.
Hầm thang máy được thiết kế khá rộng, ít nhất là phải bố trí được cả 3 cái cabin riêng biệt. Những sợi dây thép dày bên cạnh chúng tôi dẫn xuống bên dưới và biến mất vào màn đêm tối tăm.
“Liệu đây có phải là thời điểm tồi tệ nhất để tôi thú nhận rằng mình không thích độ cao chút nào không?” Tôi nói. Peter cười khẩy mặc dù đó chỉ là một thứ âm thanh rỗng tuếch, vô thường.
“Còn tốt hơn là ở lại đây.” Cậu ấy trả lời.
Một cách cẩn thận, cậu ấy trèo qua mặt bên của trục và nắm lấy sợi dây dày lủng lẳng bên cạnh thang máy của chúng tôi. Tôi nhìn theo, cố không nghĩ về cú ngã vô cớ mà tôi có thể gặp phải. Tôi không hề nói dối khi bảo với Peter rằng mình không thích độ cao.
Chúng tôi bắt đầu trượt xuống dần. Ngay sau đó, mọi cơ bắp trong người tôi đều đang thét gào phản đối nhưng tôi vẫn phải tiếp tục. Có một lần, tôi thử liếc nhìn xuống dưới nhưng nó chỉ tổ làm tim tôi đập nhanh hơn. Cái trục đèn đỏ kéo dài thẳng xuống dưới, khuất khỏi tầm nhìn của tôi. Tôi nhanh chóng nhìn lên một lần nữa.
Sau khoảng thời gian kéo dài dường như vô tận, cuối cùng chúng tôi cũng đến được lối vào tầng 6. Có một cái gờ hẹp, được sử dụng để bảo trì, chạy quanh chu vi của trục và chúng tôi cẩn thận nép dọc theo đó trong trạng thái quay lưng vào tường.
Cánh cửa vào tầng 6 đã bị đóng chặt cứng. Tôi thử luồn ngón tay vào giữa và cố cạy chúng ra.
Bên cạnh tôi, Peter nhìn xuống và thì thầm.
“Robb? Anh có thấy nó không?”
Dù sợ hãi, tôi vẫn nhìn xuống.
Không có nhiều ánh sáng để nhìn kĩ đó là gì nhưng ngay khi nhìn xuống phía dưới, tôi có thể nhìn thấy một thứ gì đó cách chúng tôi rất xa đang di chuyển bên dưới.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi ngay tức khắc. Tôi không thể nhìn chi tiết nên chỉ có thể trông thấy vài phần thô sơ.
Ánh sáng loé lên phản chiếu từ kim loại. Tiếng lách cách của một đôi chân dài khẳng khiu. Một đôi mắt đỏ rực. Sợi dây bên cạnh chúng tôi đột nhiên lắc lư mạnh như thể có thứ gì đó đang nắm lấy nó và bắt đầu leo lên.
“Mẹ kiếp, mẹ kiếp, mẹ kiếp!” Tôi thì thầm qua giữa hàm răng đang nghiến chặt. Tôi quay lại cánh cửa với nỗi tuyệt vọng ngập tràn.
“Nhanh lên, Robb! Nhanh lên!” Peter thì thầm. Sự hoảng sợ gieo rắc trong từng câu chữ của cậu ấy. “Nó đang đến!”
Cuối cùng, cánh cửa cũng mở ra với một tia sáng xuyên qua trục. Không có thời gian để mở nó ra hoàn toàn. Tôi buộc mình vượt qua khe hở chật hẹp với Peter theo sát ngay phía sau. Với những ngón tay mò mẫm xung quanh, tôi khép các cánh cửa lại với nhau, dường như có một thứ gì đó màu xám vừa dài vừa mỏng đang cố leo lên từ trục bên dưới.
Chúng tôi gục xuống sàn, hoàn toàn kiệt sức. Qua cánh cửa đóng chặt, chúng tôi nghe thấy tiếng gì đó cạch cạch trên cánh cửa mà chúng tôi vừa đóng. Sau một vài giây, nó được thay thế bằng một âm thanh lách cách, di chuyển xa hơn về phía trục. Từ từ, tất cả mọi thứ cũng chìm trong im lặng.
“Cái quái gì thế?” Tôi thì thầm. Peter chỉ biết tròn mắt nhìn tôi.
“Tôi không biết nữa. Ai mà biết được họ đang theo đuổi những gì ở những tầng thấp hơn thế này? Ở đây không đơn giản chỉ có các lập trình viên. Các nhà sinh vật học, bác sĩ,…không có mặt nghiên cứu khoa học nào mà không xuất hiện ở đây cả.”
Tôi im lặng và trầm ngâm suy nghĩ về những gì cậu ấy nói trong vài giây. “Chúng ta cần phải di chuyển, trước khi…thứ đó quay trở lại.” Cuối cùng thì tôi cũng nói và đứng dậy. “Dẫn đường nào, Peter.”
Thế là chúng tôi bắt đầu đi xuống những dãy hành lang quanh co của tầng 6.
[ Còn tiếp…]