Khi viên cảnh sát hỏi tôi con bé đã mất tích bao lâu rồi. Tôi nuốt ngụm nước bọt nghẹn lại nơi cổ họng và trả lời.
“Tròn ba mươi tiếng.”
Anh ta bắt đầu viết xuống và khựng lại.
“Bà cần đến tận 30 tiếng để phát hiện con gái bà mất tích?”
Tôi lắc đầu. “Tôi biết con bé mất tích khi vừa thức dậy vào sáng hôm qua nhưng người ta nói phải đợi 24 tiếng mới được báo án mất tích.”
“Thưa bà, đó hoàn toàn là nói dối. Điều quan trọng nhất là bà phải thông báo cho chúng tôi càng sớm càng tốt. Thông báo càng trễ thì bà càng khó gặp lại con mình.”
Cảm giác lo lắng lại lần nữa trào ngược từ dạ dày lên đến cổ khiến tôi phải nuốt nước bọt lần nữa. Nước mắt chực trào nơi khoé mi, tay thì không ngừng dày vò gấu áo, tất cả hơi ấm trong người tôi như vụt tắt cả.
“Tôi….tôi không biết…điều đó.”
Anh ta nhìn chằm chằm tôi với một cách kĩ lưỡng sau đó thì đối xử như thể tôi lại là một nạn nhân khác của mấy show hình sự thường thấy trên truyền hình và hỏi thêm vài câu hỏi.
Kể từ khi sinh non, Mary đã luôn trở thành một nỗi lo lắng thường trực trong lòng tôi. Con bé phát triển quá chậm so với những đứa trẻ bình thường khác. Con bé cũng gặp khó khăn khi nhận thức về cái này cái kia và gần như không thể giữ thăng bằng. Đa phần các vấn đề về sức khoẻ được giải quyết bằng các chuyến đi đến phòng khám nhi khiến con bé khá ổn vào năm 2 tuổi nhưng vài vấn đề nan giải khác lại xuất hiện.
Con bé thích kéo tóc, dây thừng, dây xích hay bất cứ thứ gì có thể kéo được. Đặc biệt là các đồ vật quan trọng hoặc nhạy cảm. Con bé cũng rất hay nói dối. Nếu tôi hỏi con bé tại sao cứ hay kéo đuôi con chó thì con bé sẽ giơ cả hai tay lên (đôi khi là một tay, tay còn lại vẫn còn đang nắm đuôi con chó) và chối nguầy nguậy. “Không. Không có mà.”
Tôi đã tìm cách cho con bé thời gian để suy nghĩ thậm chí là mắng mỏ cũng không có tác dụng. Vài cách khác như ôm, giải thích cho con bé hiểu hay lấy mất món đồ chơi con bé thích cũng chả giúp ích gì mấy. Ông ngoại đã đưa con bé đến nhà ông bà chơi vào cuối tuần và trở về với một vết cắn chói mắt ở tay, ông cũng thừa nhận đã đánh con bé. Không phải vì nó cắn ông mà vì con bé cứ luôn bật lại ông bà. Trời không biết quỷ không hay, bằng một cách nào đó mà con bé đã học được hai từ “Khốn nạn” và “Chết”. Tôi thề là mình đã cố gắng hết sức trong việc tránh cho Mary tiếp xúc với mấy từ chửi thề.
Cuối cùng, tôi cũng đã tìm ra một giải pháp khá hiệu quả. Tôi đã đề nghị con bé đi vòng quanh nhà khi con bé làm vỡ chiếc ly và suy nghĩ về những gì mà con đã làm. Con bé đi từ nhà bếp đến phòng khách, phòng ngủ rồi lại quay về nhà bếp, cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến khi con bé bắt đầu sụt sịt. Tôi đã để Mary dừng lại ở vòng thứ 6 và cho con bé đi xem phim hoạt hình.
Sự kì lạ và tàn nhẫn của Mary đã giảm đi đôi chút. Không nhiều nhưng đó là một sự tiến bộ rõ rệt và khiến vợ chồng chúng tôi bình tĩnh lại phần nào.
Ngay sau đó, Mary đã đánh Peter – người anh trai 5 tuổi của con bé đến nỗi thằng bé bật khóc. Con bé đã tự đi lòng vòng xung quanh nhà mà không ai yêu cầu gì cả. Vài giây sau đó, tôi đã bám theo con bé, mặt mày đỏ bừng và sẵn sàng nhốt phắn con bé vào phòng trong 15 năm tiếp theo của cuộc đời.
Mary dừng lại khi nhìn thấy bóng của tôi vượt qua con bé và tôi bắt đầu cằn nhằn. Tất nhiên là chả lọt tai con bé chữ nào.
Mary phát hiện một tổ chim non ở gần ống thông gió. Trong tổ còn có 3 chú chim non đang chờ mẹ quay về. Tôi không để ý đến chúng lắm cho đến khi Mary bóp chết một trong ba, đầu của con chim non thò ra giữa các ngón tay như cây xúc xích nhỏ của con bé.
Tôi đã tắm cho con bé trong khi bố nó đặt lịch hẹn với một nhà tâm lý học trẻ em. Tôi đã nói với con bé rằng điều nó làm đã khủng khiếp đến mức nào và con bé cần phải đối xử tử tế với động vật hơn, đặc biệt là các loài nhỏ và đáng yêu.
“Con cứ hăm he làm đau người khác thì sao mà họ thích con được?” Tôi nói với một sự nghiêm khắc nhất định.
Mary nhún vai. Con bé thích thú nhún vai và nhìn tôi với đôi mắt to tròn trống rỗng.
Những ngày tháng tiếp theo là khoảng thời gian mà cả gia đình vật lộn với mớ bòng bong mang tên Mary. Bác sĩ trị liệu đã bảo rằng trẻ em ở tuổi này bạo lực một tí là bình thường nhưng cái cách con bé phản ứng lại với việc dạy dỗ bình thường thì lại không. Con bé đã được kiểm tra tất cả các loại rối loạn có thể xuất hiện, từ ADHD (Rối loạn tăng động giảm chú ý), PTSD (Rối loạn stress sau sang chấn) cho đến RAD (Rối loạn gắn bó ở trẻ). Mọi kết quả đều cho thấy con bé có gì đó không giống với những đứa trẻ bình thường khác nhưng người ta cũng không kết luận được cái quái gì đang diễn ra trong đầu Mary. Chẳng bao lâu sau, từ việc nghi ngờ con bé, họ bắt đầu chuyển sang vợ chồng chúng tôi và cả Peter đề phòng trường hợp chúng tôi nói dối.
Chúng tôi đã tìm thấy một bác sĩ tâm thần sẵn sàng kê thuốc cho một đứa trẻ 4 tuổi. Loại thuốc duy nhất có vẻ giúp ích gì đó là Adderall – loại thuốc khiến con bé ít đi rình mò mấy cái tổ chim lại. Sau đó chúng tôi đã tìm thấy một tên lang băm khác sẵn sàng kê đơn thuốc an thần. Chúng tôi hi vọng rằng nếu Mary bình tĩnh một chút, vợ chồng tôi sẽ dễ dàng giúp đỡ con bé hơn. Hoặc chí ít là con bé sẽ không có thêm vết máu nào trên mặt trong một ngày.
Em gái tôi khi biết chuyện đã doạ sẽ gọi cho CPS (Tổ chức bảo vệ trẻ em). Thế là chúng tôi phải dừng việc cho con bé sử dụng thuốc. Thật ra thuốc cũng chả giúp ích gì mấy, chúng tôi đã tự đánh lừa bản thân mình rằng thuốc giúp con bé ít bạo lực hơn nhưng giờ thì tôi nghĩ tôi sai rồi, mấy thứ đấy chỉ càng kích thích con bé hơn thôi.
Hai ngày trước, Mary đã đe doạ Peter bằng một cây kéo thó được từ bàn bàn giáo viên – thứ mà một học sinh lớp một không được chạm vào. Thật may là chẳng ai phải đổ máu, thậm chí cây kéo còn chẳng chạm được vào da của Peter nhưng như thế là quá đủ rồi. Tôi hỏi con bé tại sao lại làm vậy thì nó lại nhún vai và nhìn tôi với đôi mắt to tròn trống rỗng. Tôi không biết con bé có còn là con người không nữa.
Tôi đã bảo con bé hãy đi xa thật xa vào.
Viên cảnh sát kết thúc chuỗi câu hỏi của anh ta. Tôi không biết thời gian đã trôi qua bao lâu rồi nữa. Đầu óc tôi quay cuồng, kiệt sức và sợ hãi, kèm theo đó là một chút nhẹ nhõm.
“Chúng tôi sẽ làm hết sức có thể thưa bà.”
“Cảm ơn.” Tôi lầm bầm và rời khỏi đồn cảnh sát, mở cửa xe và ngồi vào ghế bên cạnh chồng tôi.
“Họ có cần nói chuyện với anh không?”
“Họ có số của anh. Họ bảo sẽ gọi anh nếu cần.”
Chúng tôi lái xe về nhà trong im lặng. Không có gì để nói.
Có thể là tôi đã không cố gắng đủ để trở thành một người mẹ tốt hay đã lơ là việc chăm sóc và bằng một cách nào đó, các hành động tiêu cực đã xâm nhập vào cuộc sống của con bé. Cũng như sự thật rằng việc ông ngoại đánh con bé là một bằng chứng cho thấy con bé đang phản ứng lại với thứ gì đó mà tôi không biết.
Nếu đúng như thế, đó hẳn phải là điều mà con bé sẽ không kể với bác sĩ trị liệu, anh trai hay bất kì cô dì chú bác nào khác. Không có câu hỏi nào khiến con bé khó chịu cả và con bé trả lời mọi thứ. Đôi khi là nói dối và đôi khi lại thật thà đến mức khó chịu nhưng nhìn chung thì chẳng có gì đáng để khiến con bé tổn thương như thế.
Và thành thật mà nói, tôi yêu Mary. Tôi đã phải trải qua quá nhiều đớn đau và khổ sở cùng với chồng và con trai. Tất nhiên vẫn có một tia hi vọng len lói trong tôi rằng một ngày nào đó con bé có thể mạnh khoẻ, hạnh phúc và thân thiện. Tôi sẽ để con bé giết con chó nếu đó là điều nó muốn và con bé sẽ hiểu được ý nghĩa của việc tổn thương một ai đó.
Và Peter, cho dù có chuyện gì xảy ra, thằng bé cũng đang trên con đường trở thành một con người tuyệt vời bất kể em gái mình thế nào. Và ngay tại khoảnh khắc đó, có lẽ Mary đã chọn thằng bé làm vật hi sinh.
Trong khi con bé đi bộ, tôi đã nghĩ ra một kế hoạch.
Tôi nói với chồng mình và chúng tôi khóc trong vòng tay của nhau. Vì thương tiếc và…nhẹ nhõm. Đó luôn là điều mà chúng tôi không bao giờ có thể thừa nhận với nhau một cách công khai.
Không ai trong chúng tôi có đủ sức mạnh để tổn thương con bé một cách trực tiếp. Chúng tôi cho con bé vào một chiếc túi ngủ khi con bé đang say giấc, lái xe đến một bờ sông vắng vẻ và hít thở thật sâu khi con bé đang trong vòng tay chúng tôi.
Đây là cách duy nhất để có thể đảm bảo an toàn cho Peter.
Tất nhiên việc này sẽ có những hệ luỵ nhất định. Tôi sẽ không ngừng suy nghĩ về những việc tôi đã làm sai, làm sao để tôi ngăn điều đó lại, làm thế nào tôi lại có thể tổn thương ruột thịt của chính mình. Peter sẽ lớn lên và hỏi liệu bố mẹ mình có thật sự độc ác như thế và thằng bé sẽ phải “giả tạo” trước ống kính thế nào nếu họ tìm thấy bằng chứng chống lại chúng tôi.
Và bây giờ, ngay khi đang gõ những dòng chữ này vào giữa đêm khuya, tôi tin rằng linh hồn sẽ báo thù. Tôi không biết phải giải thích thế nào về tiếng gõ cửa đang gõ đều nhịp ngoài kia nữa
