TÔI CÒN BAO LÂU ĐỂ SỐNG?

Tiểu luận của Paul Kalanithi, được đăng tải trên The New York Times ngày 24/01/2014.

Ngay khi có kết quả chụp CT, tôi bắt đầu xem xét chúng. Tôi ngay lập tức đưa ra được chẩn đoán của mình: khối u đã chèn ép lên phổi và làm biến dạng cột sống. Là ung thư. Trong thời gian thực tập giải phẫu thần kinh, tôi đã xem đi xem lại cả trăm lần những hình chụp CT ấy cho các bác sĩ khác để xem liệu ca phẫu thuật có hy vọng gì không. Tôi hí hoáy viết vào hình chụp “Bệnh đã di căn — không chỉ định phẫu thuật” và tiếp tục với hình chụp khác. Nhưng không, lần này thì khác: đây là kết quả chụp CT của chính tôi.

Tôi đã ngồi đối diện vô vàn bệnh nhân và gia đình của họ để thảo luận về những tiên lượng đầy nghiệt ngã: đó chính là một trong những công việc quan trọng nhất mà bác sĩ phải làm. Công việc sẽ dễ dàng hơn nếu bệnh nhân đã ở tuổi 94, đã đến giai đoạn cuối của chứng mất trí nhớ và họ bị xuất huyết não trầm trọng. Còn đối với những bệnh nhân trẻ như tôi — một người đàn ông 36 tuổi — được chẩn đoán đã mắc bệnh ung thư, thì cũng chẳng có nhiều điều để nói. Tôi chỉ nhắc đi nhắc lại những lời rập khuôn như, “Đời là cuộc chạy marathon, chứ không phải chạy nước rút, vậy nên hãy cứ nghỉ ngơi hàng ngày” và “bệnh tật có thể khiến gia đình bạn tan vỡ hoặc đoàn kết hơn — hãy hiểu cho nhu cầu của nhau và tìm thêm kiếm sự hỗ trợ.”

[T/N: Life is a marathon, not a sprint có ý nói rằng những niềm vui trong đời cần thời gian, vậy nên đừng vội vã]

Tôi đã học được một vài luật lệ cơ bản. Chẩn đoán thì cần phải chính xác, nhưng không được phép bóp chết niềm hi vọng. Mơ hồ thôi nhưng cũng phải chính xác: “Vài ngày hoặc vài tuần”, “Vài tuần hoặc vài tháng”, “Vài tháng hoặc vài năm”, “Vài năm, hoặc một thập kỉ, thâm chí hơn thế”. Chúng tôi không bao giờ nói chi tiết và thường khuyên họ đừng nhìn vào những bản thống kê tỉ lệ sống sót trên Google, mặc định rằng các bệnh nhân bình thường sẽ không hiểu rõ về thống kê học.

Mọi người sẽ phản ứng lại câu nói “Quy trình X có 70% sống sót” khác với “Quy trình X có 30% tử vong”. Và theo cách đó, họ đổ xô đi thực hiện Quy trình X, mặc cho số liệu ở cả hai cách nói ấy đều như nhau. Khi một người bạn thân mắc bệnh ung thư tuyến tụy, tôi trở thành bác sĩ duy nhất giữa một dàn các nhà thông kê học dỏm. Tôi vẫn thường khuyên họ rằng đừng tìm kiếm những bản thống kê ấy nữa, tôi nói rằng những số liệu thống kê ấy thể hiện rằng bệnh nhân có thể sống được 5 năm thì tức là nó cũng đã lỗi thời được 5 năm rồi. Bằng cách nào đó, tôi cảm thấy những con số đứng riêng rẽ ấy thật khô khan, hoặc là do kinh nghiệm chiến đấu với bệnh tật hàng ngày của tôi cần thiết hơn cho hoàn cảnh hiện tại. Nhưng hầu hết trường hợp, tôi thấy xúc động: thôi thì giữ lại một thước đo cho hi vọng.

Những đường cong này được gọi là đường cong Kaplan-Meier, nó được dùng để đo chỉ số hồi phục sau khi được điều trị ung thư, vẽ biểu đồ về lượng bệnh nhân sống sót theo thời gian. Với một số căn bệnh, đường cong tựa như chiếc máy bay nhẹ nhàng hạ cánh, một số khác thì như một cái máy bay ném bom kiểu bổ nhào (dive-bomber). Các bác sĩ suy nghĩ rất nhiều về những đường cong ấy, về hình dạng, về ý nghĩa. Ví dụ, trong nghiên cứu ung thư não, trong khi số liệu về thời gian sống sót trung bình thì không thay đổi nhiều thì cuối đường cong này lại dài ra đáng kể, thể hiện rằng có một số bệnh nhân sống thọ rất lâu. Vấn đề là bạn sẽ không thể nói cho bệnh nhân biết rằng họ đang ở đâu trên đường cong ấy. Không, dù có là vô trách nhiệm đi nữa, bạn cũng không thể nói cụ thể hơn được.

Có người sẽ nghĩ, các bác sĩ chuyên khoa của tôi sẽ ngồi bên giường vệnh để gặp tôi, tôi sẽ không yêu cầu số liệu thống kê sống sót ngay lập tức đâu. Nhưng giờ đây, từ một bác sĩ, tôi đã biến thành bệnh nhân, và tôi cũng khát khao cái bản thống kê ấy như bất cứ bệnh nhân nào khác. Tôi đã hi vọng bác sĩ sẽ nhìn nhận tôi là một người vừa hiểu về thống kê vừa biết tình trạng thực tế bệnh tình của mình, rồi cô ấy sẽ cho tôi biết sự thật, một sự thật không chút tránh né. Nhưng cô ấy thẳng thừng từ chối: “Không. Không đời nào” Cô ấy hiểu rằng tôi có thể — và thực tế là tôi đã làm vậy — tra tất cả nghiên cứu về căn bệnh này. Nhưng ung thư phổi không phải chuyên môn của tôi, còn cô ấy lại là chuyên gia tầm cỡ thế giới. Cứ mỗi lần gặp mặt, tôi và cô ấy đều như đấu tay đôi vậy, nhưng vị bác sĩ này là người không bao giờ cho tôi một con số chính xác nào.

Giờ đây, thay vì tự hỏi vì sao một số bệnh nhân vẫn khăng khăng đòi xem số liệu thống kê. Tôi bắt đầu tự hỏi vì sao bác sĩ lại gây bối rối cho bệnh nhân trong khi họ đã có rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm rồi. Ban đầu, khi tôi nhìn thấy ảnh chụp CT của mình, tôi nghĩ tôi chỉ còn vài tháng mà thôi. Ảnh chụp trông rất tệ. Cơ thể của tôi, trông rất tệ. Tôi đã sụt mất 13.6 cân, chứng đau lưng ngày càng dữ dội và cảm thấy mệt mỏi hơn mỗi ngày. Các xét nghiệm của tôi cho thấy tôi thiếu protein trầm trọng và lượng máu quá ít so với cơ thể sẽ không thể duy trì được sự sống cho chính tôi.

Tôi đã ngờ ngợ rằng mình mắc ung thư từ vài tháng nay rồi. Tôi đã gặp rất nhiều bệnh nhân trẻ mắc ung thư. Vậy nên tôi không ngạc nhiên lắm. Và thậm chí, còn có chút nhẹ nhõm. Rồi việc tiếp theo phải làm đã rất rõ ràng: chuẩn bị đón nhận cái chết, khóc lóc, nói với vợ rằng nàng nên tái giá với ai khác và thu xếp lại tiền nợ sử dụng đất, để lại di thư cho những người bạn mến thân. Vâng, có rất nhiều thứ tôi muốn thực hiện, nhưng rồi thực tế là: chẳng có gì được hoàn thành cả, khi mà cả ngày làm việc của bạn chỉ dành để điều trị chấn thương đầu và ung thư não.

Nhưng rồi trong chuyến ghé thăm bác sĩ chuyên khoa ung thư đầu tiên của tôi, cô ấy nói rằng tôi sẽ trở về làm việc, vào một ngày nào đó. Tôi không phải là ma sao? Không. Nhưng tôi còn lại bao lâu chứ? Im lặng.

Dĩ nhiên, cô ấy không thể ngăn tôi miệt mài tìm tìm đọc tiếp. Tôi vẫn tìm kiếm, cố gắng tìm ra nghiên cứu nào đó có thể cho tôi biết tôi còn bao lâu để sống. Phần lớn nghiên cứu cho rằng khoảng 70 – 80% bệnh nhân mắc ung thư phổi sẽ chỉ sống được hai năm. Những nghiên cứu ấy không cho phép tôi thắp lên chút hi vọng nào. Nhưng sau đó, số liệu lại nói phần lớn những bệnh nhân này đều già rồi và họ còn nghiện thuốc nặng nữa. Vậy còn nghiên cứu về một bác sĩ thần kinh, 36 tuổi và không hút thuốc thì sao? Tuổi trẻ và sức khỏe của tôi có lẽ cũng đáng để nghiên cứu chứ? Hay là căn bệnh này phát hiện quá trễ, lan ra quá rộng, và tôi sẽ chết, thậm chí còn tệ hơn cả những bệnh nhân 65 tuổi, có hút thuốc?

Rất nhiều bạn bè và thành viên trong gia đình kể tôi nghe những câu chuyện về bạn của bạn tôi, bạn của mẹ tôi hay bạn đánh tennis của con trai thợ hớt tóc của chú tôi cũng mắc ung thư phổi và họ sống tiếp tới tận 10 năm. Ban đầu tôi tự hỏi có phải họ đều là một người được đề cập theo quy tắc 6 cái bắt tay hay không. Tôi cho rằng chúng quá hão huyền, những ảo tưởng vô căn cứ. Tuy nhiên, cuối cùng, những câu chuyện ấy thấm dần qua vết nứt của chủ nghĩa hiện thực tôi đã nghiên cứu.

[T/N quy tắc 6 cái bắt tay cho rằng chuỗi tối đa 6 lần cụm “bạn của bạn” có thể tạo ra mối liên kết giữa hai người xa lạ.]

Và rồi sức khỏe của tôi dần chuyển biến tích cực, nhờ một viên thuốc nhắm vào đột biến gene liên quan đến bệnh ung thư của tôi. Tôi bắt đầu đi lại mà không cần chống gậy và nói những câu như “Chà, chắc là tôi không đủ may để sống thêm mười năm nữa đâu, nhưng mà cũng có thể thế lắm”, một tia hy vọng le lói.

Tuy vậy, theo một cách nào đó, cái chết hiện hữu trước mắt còn dễ đón nhận hơn là một cuộc sống tương lai mịt mù. Chẳng phải những kẻ luyện ngục thà xuống địa ngục mà gột rửa cho xông ấy sao? Tôi có nên sắp xếp tang lễ chăng? Hay dành trọn phần còn lại của đời mình cho vợ, cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè thân hữu, và cho đứa cháu gái đáng yêu của tôi? Hay là viết một cuốn sách như tôi vẫn hằng mong ước? Hoặc, quay lại suy xét những lời mời làm việc suốt những năm qua.

[T/N: luyện ngục, theo Công giáo, là trạng thái sau khi một người chết về mặt sinh học, trạng thái để người ta gột rửa linh hồn của chính mình]

Con đường phía trước dường như sẽ rõ ràng hơn nếu tôi được biết mình còn bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm để sống. Nếu tôi còn ba tháng, tôi sẽ dành trọn thời gian cho gia đình. Nếu tôi còn một năm, tôi có một kế hoạch (viết sách). Nếu tôi còn mười năm, tôi sẽ quay lại làm bác sĩ. Có một sự thật nhàm chán rằng bạn đang sống từng ngày một trong dòng thời gian mà hiện thời bạn chưa nhìn thấy điểm kết: Nhưng nếu cho tôi một ngày ấy, tôi sẽ làm gì đây? Hẳn bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ nói: “Tôi không thể cho anh biết thời gian còn lại được. Anh phải tự tìm ra điều gì quan trọng nhất với chính mình.”

Tôi bắt đầu nhận ra rằng việc đối mặt với cái chết của chính mình, theo một ý nghĩa nào đó, đã thay đổi tất cả, nhưng cũng chẳng thay đổi điều gì. Trước khi tôi được chẩn đoán mình mắc ung thư, tôi biết rằng ngày nào đó rồi tôi cũng sẽ chết thôi, nhưng tôi lại không biết ngày ấy là khi nào. Sau khi tôi được chẩn đoán mình mắc ung thư, tôi biết rằng ngày nào đó rồi tôi cũng sẽ chết thôi, và tôi vẫn không biết ngày ấy là khi nào. Giờ đây tôi đã thấu hiểu nó một cách sâu sắc. Đây hẳn không phải một vấn đề khoa học. Thực tế rằng cái chết là một điều đáng lo ngại. Nhưng rồi cũng chẳng có cách nào kéo dài sư sống.

Lí do vì sao bác sĩ không đưa ra tiên lượng cụ thể cho bệnh nhân không phải vì họ không biết. Chắc chắn rằng, nếu kì vọng của một bệnh nhân là ‘bất khả thi’ – giả như một người hi vọng mình sống tới 130 tuổi, hay một ai đó lại nghĩ những vết mụn lành tính của mình là dấu hiệu của cái chết cận kề – thì các bác sĩ sẽ là người chịu trách nhiệm đưa những kì vọng xa vời ấy về với ‘khả năng có thể.’

Nhưng cái ‘khả năng có thể’ ấy dường như quá rộng lớn. Dựa trên các liệu pháp của ngày nay, tôi có lẽ sẽ chết trong vòng hai năm tới, hoặc là mười năm tới. Nếu tính thêm cả những suy đoán không chắc chắn về sự tiến bộ của y học trong hai hoặc ba năm tới, phạm vi ‘khả năng có thể’ ấy sẽ có sự khác biệt to lớn. Đối mặt với cái chết, tri thức khoa học chỉ có thể cung cấp một chút chắc chắn mà thôi: Vâng, bạn sẽ chết. Nhưng một người muốn sự khẳng định chắc nịch 100%, điều ấy là không thể.

Những gì bệnh nhân tìm kiếm không phải là tri thức khoa học bị bác sĩ giấu đi, mà là tính xác thực tồn tại mỗi người phải tự tìm kiếm. Đi tin tưởng vào số liệu thống kê giống như cố làm dịu cơn khát bằng cách uống nước mặn. Sự lo sợ phải đối mặt với cái chết là không thể khắc phục.

Tôi nhớ cái khoảnh khắc cảm giác lo lắng tột độ của tôi xuất hiện. Chỉ bảy từ của Samuel Beckett, một tác giả mà tôi thậm chí chưa đọc kĩ tác phẩm của ông, tôi học được cây nói ấy rất lâu về trước, từ khi còn là sinh viên đại học, bảy từ ấy đã lặp đi lặp lại trong tâm trí tôi và tựa như biển cả bất định, không cách nào biến mất: “Tôi không thể tiếp tục, nhưng tôi vẫn sẽ tiếp tục” (I can’t go on. I’ll go on), và rồi, đến một lúc nào đó, tôi sẽ vượt qua.

Đã tám tháng kể từ khi tôi nhận được chẩn đoán về bệnh tình của mình. Sức khỏe của tôi đã hồi phục đáng kể. Trong quá trình điều trị, căn bệnh ung thư của tôi đã dần thuyên giảm. Tôi đã dần trở lại với công việc. Tôi đang phủi bụi cho các bản thảo khoa học. Tôi viết nhiều hơn, nhìn nhiều hơn, cảm nhận nhiều hơn. 5:30 mỗi sáng, khi tiếng chuông báo thức reo lên và cơ thể tàn tạ này thức giấc, vợ tôi đang nằm say giấc cạnh tôi, và tôi lại lần nữa tự nhủ: “Tôi không thể tiếp tục”, và một phút sau, tôi đang rửa mặt, rồi đi đến phòng phẫu thuật, tôi vẫn còn sống: “Tôi vẫn sẽ tiếp tục.”

____________________

Paul Kalanithi (1977 – 2015) là một nhà giải phẫu thần kinh người Mỹ gốc Ấn đồng thời là tác giả của cuốn sách “When Breath Becomes Air” (Khi hơi thở hóa thinh không) – một cuốn hồi kí kể về cuộc đời và hành trình đấu tranh chống lại căn bệnh ung thư phổi di căn giai đoạn IV của anh. Bài tiểu luận “How long have I got left?” (Tôi còn bao lâu để sống?) được chia thành nhiều phần và lồng ghép vào trong cuốn hồi kí, chủ yếu là ở giai đoạn sau khi anh phát hiện mình bị ung thư cho tới lúc anh quay lại đứng bên bàn mổ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *