Thứ năm, ngày 15/05/2025 06:00 GMT+7
Tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, không trong diện sáp nhập: 4 cái tên vang danh nghìn đời vẫn còn nhắc, khắp năm châu kính nể
Tào Nga Thứ năm, ngày 15/05/2025 06:00 GMT+7
Tỉnh Nghệ An không thuộc diện sáp nhập và hiện tại là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước. Nơi đây có nhiều danh nhân nổi tiếng và được nhiều người nhớ đến…
Tỉnh Nghệ An: Tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, không trong diện sáp nhập
Nghệ An là một tỉnh ven biển gần cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam và là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với 16.489,97km2, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây giáp Lào với 468km đường biên giới trên bộ, phía Đông giáp biển với đường bờ biển dài 82km. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Vinh.
Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh. Theo Nghị quyết 60 của Trung ương ban hành ngày 12/4, Nghệ An nằm cùng 10 tỉnh, thành sẽ giữ nguyên trạng gồm Hà Nội, Huế, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Cao Bằng.

Theo lịch sử, Nghệ An từng là thủ đô của 2 triều đại trong lịch sử Việt Nam: Năm 670 – 723, Mai Thúc Loan là vị vua lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đóng kinh đô ở Hoan Châu, Nghệ An để kháng chiến chống giặc.
Năm 1788, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ truyền chiếu chỉ cho la sơn phu tử Nguyễn Thiếp xây dựng Thủ đô của nhà Tây Sơn đặt tại Nghệ An.
Nghệ An là địa phương có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, giàu truyền thống cách mạng, tinh thần hiếu học. Đây là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống văn hóa, tinh thần đấu tranh cách mạng, là quê hương của nhiều chí sĩ yêu nước, đặc biệt là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân ta, Anh hùng Giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hoá kiệt xuất được cả thế giới công nhận.
Danh nhân ở Nghệ An
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.

Cha của Nguyễn Sinh Cung – một nhà Nho tên là Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929), từng đỗ Phó bảng. Mẹ ông là bà Hoàng Thị Loan (1868–1901). Nguyễn Sinh Cung có một người chị là Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (sinh năm 1888, tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900–1901).
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”.
Phan Bội Châu
Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San) hiệu là Sào Nam, sinh tại quê mẹ ở Sa Nam, huyện Nam Đàn, cách quê chính là làng Đan Nhiệm chừng 3km, nằm sát trên tả ngạn sông Lam.

Theo sách Danh nhân Nghệ An, lúc nhỏ, Phan Bội Châu nổi tiếng thông minh, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết cuốn Tam Tự Kinh, 7 tuổi đã hiểu kinh truyện, 13 tuổi thi đỗ đầu huyện… và đỗ thủ khoa trường Nghệ tại kỳ thi hương năm 1900. Phan Bội Châu sớm có tinh thần yêu nước. Ông đã mang bầu máu nóng đi khắp Trung Nam Bắc, một mặt dùng thơ văn để cổ động lòng yêu nước, mặt khác tập hợp thêm lực lượng, thành lập Hội Duy Tân (1904).
Năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật, Trung Quốc rồi sang Xiêm. Ông đã xốc lên một phong trào Đông Du hết sức sôi nổi. Hàng trăm thanh niên đã vứt bỏ mộng khoa bảng từ biệt xóm làng, gia đình thân yêu hăm hở xuất dương sang Nhật Bản, Trung Quốc học tập kiến thức khoa học tiến bộ trù tính việc đánh Tây… Nhưng do dã tâm của đế quốc Nhật và âm mưu nham hiểm của thực dân Pháp cấu kết với Nhật, tháng 3/1909, tổ chức Đông Du của Phan Bội Châu bị giải tán và Phan Bội Châu bị Chính phủ Nhật trục xuất.
Sau đó, Phan Bội Châu giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam quang phục hội; Rồi cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân Đảng vào tháng 12/1924. Sau khi được tiếp xúc với đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu tiếp thu sự góp ý của Nguyễn Ái Quốc, dự định sang năm 1925 sẽ cải tổ lại Việt Nam quốc dân Đảng theo hướng tiến bộ nhất. Nhưng ngày 30/6/1925, trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu, Phan Bội Châu đã bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước. Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu là người tù bị giam lỏng ở Bến Ngự.
Lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam 25 năm đầu thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi Phan Bội Châu, nhà yêu nước chân chính, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng nhất được nhân dân cả nước kính mến, biết ơn.
Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830 mất năm 1871, xuất thân trong một gia đình Công giáo, cha làm nghề thuốc Đông y tại làng Bùi Chu (nay thuộc xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An).

Nhà nghèo, nhưng bản tính thông minh, học hành chăm chỉ, ông sớm được truyền tụng là “Trạng Tộ” nức tiếng trong vùng. Năm 1855, cố đạo người Pháp là Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu) đã mời ông dạy chữ Hán cho Tu viện Xã Đoài, đồng thời dạy ông tiếng Pháp, đưa ông đi Singapore, Hong Kong, qua Rome và Paris học các môn khoa học thường thức, thực nghiệm…
Đương thời, ông là một trong những trí thức người Việt hiếm hoi được tiếp xúc trực tiếp, mắt thấy tai nghe với nhiều thành tựu văn minh, kỹ nghệ phương Tây. Chính những điều đó đã tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Trường Tộ. Khi bước vào tuổi 30, ông đã có một vốn kiến thức rộng và sâu cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật; có hoài bão lớn, khát khao canh tân đất nước.
Bạch Liêu
Bạch Liêu (sinh năm 1236) quê ở làng Thanh Đàm, xã Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc Diễn Châu, Nghệ An). Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng khắp làng nhờ có trí tuệ hơn người, cần cù ham học.
Vào năm Bính Dần (1266), Bạch Liêu đỗ trạng nguyên nhưng không ra làm quan mà xin vua cho về quê hương để ở nhà báo hiếu cha mẹ, giúp việc cho làng xóm. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có viết về ông như sau: “Liêu người Nghệ An, tính thông minh nhớ lâu, đọc sách 10 dòng một lúc”.

Năm 1285, quân Nguyên Mông xâm lược lãnh thổ nước ta. Lúc bấy giờ, đất Hoan Diễn được coi là địa bàn chiến lược. Thấy vậy, Trần Quang Khải cho mời Bạch Liêu vào quân doanh để giúp việc quân.
Sau đó, Bạch Liêu đã dâng kế sách đối phó, chỉ rõ tình hình Hoan Diễn, phân tích thế và lực của ta của giặc. Trên cơ sở đó Trần Quang Khải điều khiển binh tướng tổ chức đánh trả quyết liệt. Đến tháng 6/1285, quân Nguyên Mông đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.
Mặc dù được triều đình ban thưởng nhưng Bạch Liêu đã từ chối mọi tước vị cũng như vật phẩm. Ông ở quê dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho người dân. Không lâu sau, ông di cư ra bắc sống ở làng Nghĩa Lư, huyện Thanh Tâm, xứ Hải Đông (nay là Hải Dương).
Trạng nguyên Bạch Liêu mất ngày 24 tháng giêng năm Ất Mão (1315) thọ 79 tuổi. Sau khi ông mất, ở Nghĩa Lư và quê ông đều xây đền thờ phụng, triều đình phong ông làm Phúc Thần, hiệu là “Dương cảnh Thành Hoàng Đại Vương”. Hiện nay tại đền thờ ông ở làng Nguyễn Xá, huyện Yên Thành, Nghệ An vẫn còn lưu giữ đôi câu đối.