TIẾNG VIỆT CỔ VÀ TRUNG ĐẠI NGHE NHƯ THẾ NÀO?

A: ThienLuan Le, sống tại Việt Nam (1991-hiện tại)

Xin chào, cảm ơn vì đã yêu cầu tôi trả lời câu hỏi: “Tiếng Việt cổ và trung đại nghe như thế nào?”

Ta đang bàn về lịch sử tiếng Việt. Câu trả lời của tôi chỉ là quan điểm của người đam mê ngôn ngữ chứ không phải một chuyên gia ngôn ngữ học.

Để trả lời thật xác đáng câu hỏi trên, cách tốt nhất chính là quay về thời Đại Việt 大越, khi tổ tiên ta vẫn đang sử dụng ngôn ngữ của họ, mà sau này đã dần dà phát triển thành tiếng nói của chúng ta ngày nay – tiếng Việt hiện đại. Hãy cứ cho rằng họ vẫn bình tĩnh để không bỏ tù chúng ta vì xuất hiện một cách kỳ lạ, hoặc tôn thờ ta như những bậc thánh. Tuy nhiên, điều chắc chắn là ta hay các cụ đều không thể hiểu đối phương đang nói gì. Tình huống có thể diễn ra thế này:

Ta trở về quá khứ bằng cỗ máy thời gian của Doraemon và ăn một miếng bánh mì chuyển ngữ.

“Chào, tụi con đến từ thế kỷ 21, quay về để nghiên cứu ngôn ngữ của các cụ đây. Xin hãy nói hay hát gì đi …”

Và chúng ta ghi hình tổ tiên ta và tiếng nói của họ bằng một cái camera thật xịn. Rồi mọi việc diễn ra ổn thỏa, các cụ còn ăn mừng và mở lễ hội thật linh đình. Sau đó, ta quay về thời hiện đại và trở nên nổi tiếng

OK nghiêm túc lại nào, tôi sẽ giải thích thật chi tiết dựa trên kiến thức đã học và đọc từ trước đến giờ.

Đầu tiên hãy xem xét lại bối cảnh lịch sử:

Chương trình lớp 10 Ngữ Văn của BGD đã đề cập rằng những cư dân đầu tiên của lãnh thổ Việt Nam ngày nay (cụ thể là miền Bắc) từng nói một ngôn ngữ không thanh điệu, khá tương đồng với tiếng Khmer và tiếng Môn ngày nay. Bằng một cách nào đó, những tộc người nói các ngôn ngữ Thái – Kadai bắt đầu di cư sang các vùng lân cận. Các bộ tộcnói các ngôn ngữ khác nhau (thuộc ngữ hệ Nam Á hoặc Thái – Kadai) sống cạnh nhau rất lâu và có quan hệ gần gũi. Dần dần, họ hòa nhập nền văn hóa, ngôn ngữ và thậm chí hợp nhất với nhau thông qua hôn nhân. Các quốc gia được thành lập, và con cháu của họ sử dụng cácngôn ngữ có thanh điệu. Có thể nói, dạng sơ khai nhất của tiếng Việt nghe rất giống tiếng Khmer và tiếng Môn trước ảnh hưởng của tiếng Phạn. Thật ra, những ngôn ngữ Bahnar (thuộc ngữ hệ Môn – Khmer) ởcác vùng cao nguyên Việt Nam vẫn giữ lại một số từ vựng cơ bản (chẳng hạn những từ như “người”, “sống”, “chết”, “sông”, trời”, “trăng”,…) rất giống với những từ tương đương trong tiếng Khmer và tiếng Việt. Như vậy, theo tôi, những ngôn ngữ đã thay đổi rất ít trong khoảng 3000 năm như trên có thể phản ánh khá rõ âm hưởng của tiếngViệt từ thủa ban đầu.

Năm 214 TCN, nhà Tần xâm lược các bộ tộc Việt 越 ở phương Nam và bắt đầu công cuộc Hán hóa. Không phải toàn bộ người Việt đều cam chịu sự xâm chiếm và bá quyền của bọn giặc phương bắc. Vẫn có ba tộc Việt phản kháng bằng cả sức mạnh và ngôn ngữ, văn hóa. Họ lập nên một liên minh chống lại Trung Hoa và dần sáp nhập vào nhau. Tuy nhiên, người phương Bắc đã thành công trong việc đàn áp và làm chủ những vùng đất Việt 越 cuối cùng. Từ đó, người Trung Quốc dần di cư ồ ạt sang những vùng đất này. Họ thuộc vào mọi tầng lớp xã hội thời bấy giờ: nông dân, binh lính, thương nhân, trí thức và thợ thủ công, và đã mang đến đây những thành tựu và tri thức của dân tộc họ. Những người dân di cư ban đầu vẫn ngại tiếp xúc với người Việt, bởi theo chính quyền, họ thuộc vào tầng lớp thứ nhất còn những người bản địa thuộc tầng lớp thứ hai tại vương quốc mới – Nam Việt 南越. Nhưng về sau, họ dần hòa nhập vào cộng đồng người bản địa và càng ngày bị Việt hóa.

Từ đó ta kết luận, tiếng Việt đã phát triển trải qua 7 giai đoạn:

  1. Giai đoạn Môn – Khmer: Tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ Môn – Khmer khác vẫn chưa phân hóa và chưa thay đổi nhiều từ tiếng Tiền Môn – Khmer (khoảng 4000 năm trước)
  2. Giai đoạn Tiền Việt – Mường: ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Việt và tiếng Mường phát triển từ tiếng Tiền Môn – Khmer trước khi bị Hán hóa. Tại thời điểm này tiếng Việt vẫn chưa có thanh điệu. (ngay sau giai đoạn Môn – Khmer cho tới thế kỷ II SCN, kéo dài khoảng 2000 năm)
  3. Giai đoạn Việt – Mường cổ: bắt đầu bị Hán hóa và phát triển thanh điệu. Tiếng Việt và tiếng Mường vẫn là ngôn ngữ thống nhất (từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX SCN)
  4. Giai đoạn Việt – Mường chung: người Việt được tự do, thành lập quốc gia tự chủ – Đại Việt. Bắt đầu giai đoạn phân hóa Việt và Mường dựa trên những từ mượn tiếng Hán và phiên âm Hán Việt (từ thế kỷ X SCN)
  5. Giai đoạn tiếng Việt cổ: kéo dài khoảng 2 thế kỷ, từ đầu thế kỷ XIV cho đến cuối thế kỷ XV. Tiếng Việt thời bấy giờ vẫn có khá nhiều ảnh hưởng từ tiếng Hán cổ, từ vựng Hán Việt được hình thành đầy đủ. Ngoài ra, tiếng Việt và tiếng Mường đã tách thành hai ngôn ngữ với nền văn hóa khác nhau. Chữ Nôm, phát triển dựa trên các bộ thủ và cách cấu tự (lục hán) của chữ Hán được dùng để viết ngôn ngữ của chính họ. Chữ Nôm và chữ Hán được dùng song song trong hệ thống chữ viết tiếng Việt
  6. Giai đoạn tiếng Việt trung đại: cuối thế kỷ XV cho đến đầu thế kỷ XIX. Tiếng Việt bắt đầu có tương tác với những ngôn ngữ châu Âu, đầu tiếng là tiếng Tây Ban Nha, tiếp đến là tiếng Pháp và những ngôn ngữ châu Âu khác (tiếng Ý, tiếng Bồ Đào Nha). Ngữ âm tiếng Việt được phản ánh khá rõ qua Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes. Đây cũng là thời kỳ các giáo sĩ truyền đạo Công giáo hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ. Những nhà truyền giáo có thể là người Pháp, Ý, Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha, điều đó phần nào giải thích vì sao chữ Quốc ngữ có khá nhiều dấu phụ
  7. Giai đoạn tiếng Việt hiện đại: cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cho đến nay. Chữ Quốc ngữ hoàn toàn thay thế chữ Nôm và chữ Hán

(Xem phần giải thích tiếng Việt cổ và trung đại ở từng ảnh)

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm, đây là đề xuất của tôi, 2 bài nghiên cứu đáng kể về lịch sử tiếng Việt:

Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việtcủa GS. Nguyễn Tài Cẩn

A study of Middle Vietnamese phonology của Kenneth Gregerson

Tôi mong là câu trả lời của mình có ích. Nếu có sai sót thì xin hãy nói nhé, tôi luôn sẵn lòng với mọi việc sửa lỗi.

Tiếng Việt cổ:

Ta cần một số ví dụ. Đây là quá trình biến đổi ngữ âm từ tiếng Việt cổ sang tiếng Việt trung đại, theo học giả Trần Quang Đức.

(Dịch giả: người trả lời có vẻ nhầm lẫn, ảnh ở trên đáng lẽ phản ánh quá trình biến đổi từ tiếng Việt trung đại sang cận/hiện đại)

Dựa vào đó, tôi có thể đoán rằng tiếng Việt cổ trông như thế này, ví dụ:

•Con blâu uấng nác krông cạnh bụi tle.( Old Vietnamese)

•Con trâu uống nước sông cạnh bụi tre.( Modern Vietnamese)

# “Nác” nghĩa là “nước” (một cách phát âm cổ của “nước”, vẫn còn được sử dụng ở Hà Tĩnh và Nghệ An)

# “Krông” nghĩa là “sông” trong một số ngôn ngữ Bahnar.

Với tuyển tập thơ “Quốc âm thi tập” 國音詩集 của Nguyễn Trãi 阮廌 đầu thế kỷ XV cùng “Bạch Vân Am thi tập” 白雲庵詩集 của Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙, tiếng Việt đã thể hiện khả năng diễn đạt những tâm tư, tình cảm cũng như suy tư.

Như đã nói ở trên, tiếng Việt thời kỳ này vẫn còn ảnh hưởng nặng nề bởi tiếng Hán cổ và trung đại. Do đó, các từ vựng Hán – Việt rất phổ biến vào lúc này. Kể cả đến thời kỳ tiếng Việt hiện đại, tầm quan trọng của các từ mượn tiếng Hán vẫn không thay đổi. Tôi nghĩ rằng phiên âm Hán Việt thời đó khá khác biệt so với bây giờ. Có thể chúng được phát âm tương đồng với ngữ âm tiếng Hán thời Đường hơn. Tuy nhiên tôi cũng không chắc lắm, đó chỉ là phỏng đoán cá nhân thôi.

Ngoài ra chúng ta cũng phải kể đến “An Nam dịch ngữ” 安南譯語 trong bộ “Hoa Di Dịch Ngữ” 華夷譯語 , được biên soạn vào thế kỷ XV – XVI thời Minh. Tác phẩm này giúp cho các sứ thần Trung Hoa hiểu và thông dịch những ngoại ngữ khác.

Tiếng Việt trung đại:

Tôi tin rằng ngữ âm tiếng Việt trung đại được thể hiện qua bốn cuốn sách sau:

1. “Từ điển Việt-Bồ-La” (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes

2. “Từ vựng Việt-La” (Vocabularium Annamitico-Latinum) của Pierre Joseph Georges Pigneau

3. “Từ điển Taberd” (Dictionarium Annamitico-Latinum) của Jean Louis Taberd

4. “Đại Nam quấc âm tự vị” 大南國字彙 của Huình-Tịnh-Paulis-Của

Đây là một ví dụ tiêu biểu của tiếng Việt trung đại vào thế kỷ XVI, trích từ “Catechismus in octo dies diuisus” hay “Phép giảng tám ngày”, một cuốn sách giáo lý vấn đáp song ngữ (tiếng Việt trung đại và tiếng Latin) của Công giáo La mã, biên soạn bởi linh mục truyền giáo Alexandre de Rhodes, xuất bản ở Roma, Ý vào năm 1651 cùng với “Từ điển Việt-Bồ-La”. Đây được xem như là cuốn sách tiếng Việt đầu tiên sử dụng chữ Quốc ngữ.

Nguồn: “Phép giảng tám ngày” https://vi.m.wikisource.org/…/Ph%C3%A9p_gi%E1%BA%A3ng_t…

“CATECHISMUS

in octo dies diuiſus

Phép giảng tám ngày

Dies Primus.

Ngày thứ nhít.

Vppliciter petamus ab optimo Cœli Domino vt adiuuet nos, ad hoc vt intelligamus probè legem Domini b intelligendum autem ad boc eſt neminem eſſe in hoc ſęculo qui diù viuat, c vix enim pertingitur ad ſeptuageſimum aut octageſimum ætatis annum d quęrendus eſt igitur à nobis modus vt poſſimus diù viuere, e hoc eſt, vitam ſempiternam adipiſci f hoc enim verè prudentis est g cæteræ omnes huius mundi artes quamuis diuitijs acquirendis ſint aptæ, h minimè tamen eripere nos poterunt ab ignobilitate & miſeria, quin tãdem in eam

Ta cầu cu᷄̀đức Chúa blời giúpſưc cho ta biét tỏ tưầng đạo Chúa là nhưầng naò b vì ꞗậy ta phải hay ở thế nầy chảng có ai ſóu᷄ lâu; c vì chưng kẻ đến bảy tám mươi tuổi chảng có nhềo. d vì ꞗậy ta nên tìm đàng nào cho ta được ſòu᷄ lâu, e là kièmhàng ſòu᷄ ꞗậy: f thật là viẹ người cuên tử. g khác phép thế gian nầy, dù mà làm cho người được phú qúi: h ſau᷄ le chảng làm. được cho ta ngày ſau”

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *