THỤY BẢO CÔNG CHÚA – NGƯỜI PHỤ NỮ HAI LẦN ĐỨT GÁNH TƠ DUYÊN

Tương truyền Nguyệt Lão dùng tơ mà se kết duyên của nhân giới, cứ mỗi hai sợi tơ được se lại với nhau sẽ tạo thành một mối nhân duyên trời định, nhưng các sợi tơ ấy lại dày mỏng khác nhau, đại biểu cho nhân duyên có trường có đoản. Ai lại không mong mình có được mối lương duyên bền chặt, một đời không đổi. Tiếc rằng lòng người khó có thể nghịch cải thiên mệnh đã ban. Trần triều có một vị công chúa, hai lần bước lên kiệu hoa, hai lần gắng tìm cho mình một hạnh phúc nhưng vô vọng, đó là nàng Thuỵ Bảo.

Sử sách không nói rõ nàng tên gì, sinh thần bát tự cũng không rõ, chỉ có vài dòng nói rằng nàng là con vua Thái Tông, cô của Nhân Tông và là ngoại tổ mẫu của Minh Tông, thân phận thập phần cao quý. Năm Thuỵ Bảo đến tuổi cập kê, anh nàng là Thánh Tông liền chọn phò mã xứng lứa vừa đôi với nàng. Trong tông thất lúc đó có Uy Văn Vương Trần Toại nổi tiếng hay chữ, lại phong lưu phóng khoáng, tuấn dật hơn người, được Thái Tông cùng Thánh Tông quý mến lắm. Trai anh tài, gái thuyền quyên, hai người đến với nhau trong sự chúc phúc cùng khen ngợi của cả thiên hạ.

“Tình nồng cứ ngỡ bền lâu/Giờ như sương khói nơi đầu ngón tay”. Phận số vốn thích trêu ngươi, mối lương duyên của Thuỵ Bảo chưa được bền lâu thì đã bị ông trời tàn nhẫn đoạn tuyệt, chia loan rẽ thuý. Năm Uy Văn Vương 24 tuổi, ông mắc bạo bệnh không thể qua khỏi. Dù cho hoàng tộc tài phú không hề thiếu nhưng các thầy lang cùng ngự y đều lắc đầu thở dài trước căn bệnh của ông. Khổ sở, đau đớn, bất lực,… Thuỵ Bảo ôm trong lòng ngũ vị tạp trần, chấp nhận sự thật rằng chồng nàng giờ đây đã cùng nàng âm dương cách biệt, không thể gặp lại được nữa.

Thương cô mình chịu cảnh giường đơn gối chiếc khi còn đương tuổi xuân thì, Nhân Tông liền đứng ra mai mối, muốn cô mình về chung một nhà với Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng. Bảo Nghĩa hầu tuy công danh hiển hách, lập được nhiều công tích nhưng lại thân gà trống nuôi con, vừa lo việc nước vừa chăm sóc người con gái là Chiêu Hiến Quận chúa. Hơn hết, Nhân Tông cũng càng thương cho Quận chúa còn nhỏ đã thiếu vắng tình yêu thương của mẹ, mà Thuỵ Bảo công chúa dưới gối lại chưa hề có người con nào. Nếu có thể tác thành mối lương duyên này, thật tốt đẹp xiết bao!

Dưới sự động viên của thân thích, cuối cùng nàng Thuỵ Bảo chấp nhận tiến thêm bước nữa trong hôn nhân, đồng ý gả cho Trần Bình Trọng. Người trong kinh ai cũng khen là lương duyên tốt đẹp, xứng đáng được hưởng hạnh phúc ấm êm lâu bền. Hiềm thay, hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai.

Nhà Nguyên vẫn chưa từ bỏ được tham vọng xâm chiếm Đại Việt sau lần thất bại trước, tiếp tục cho quân nam tiến đánh nước ta. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Nguyên – Mông lần hai đó, Trần Bình Trọng bị quân địch bắt được và hy sinh anh dũng, để lại tiếng thơm đời đời. Và, bi kịch đã từng xảy ra trong quá khứ lại tiếp tục xảy đến với Thuỵ Bảo: nàng lại goá bụa lần nữa.

Trái tim vốn đang dần lành vết thương của nàng giờ đây lại tiếp tục rỉ máu. Tại sao ông trời lại đối xử với nàng tàn nhẫn đến như thế? Đời người phụ nữ vốn đã đủ bất công, hà cớ chi phải khiến duyên tình cũng bẽ bàng theo? Sau khi để tang chồng, công chúa Thụy Bảo dồn tất thảy tình yêu thương và nuôi dạy Quận chúa Chiêu Hiến như con đẻ. Nàng biết, đây là điều duy nhất mình có thể thay người chồng quá cố thực hiện, bởi Chiêu Hiến là cốt nhục duy nhất người ấy lưu lại.

Khi Trần Anh Tông lên ngôi (năm 1294), lấy Quận chúa Chiêu Hiến làm thứ phi và Quận chúa đã sinh hoàng tử Trần Mạnh (năm 1300, sau là Minh Tông). Ban đầu Chiêu Hiến có ý chần chừ do dự, nhưng chính Thụy Bảo đã đứng sau khuyến khích, ủng hộ hết mình. Con gái thành gia lập thất, nàng cũng vơi bớt phần nào gánh ưu tư. Mãi đến khi Chiêu Hiến sinh hoàng tử Mạnh, công chúa Thụy Bảo từ chối lời mời nuôi dạy hoàng tử, lánh về nương nhờ cửa phật ở núi Hổ, sau đó lập chùa Phúc Lâm ở thôn Tiền xã An Lạc (nay thuộc xã Tam Thanh huyện Vụ Bản) và về tu ở đó. Đồng thời nàng cũng khai khẩn đất hoang tạo thành khu vườn hoa tươi tốt, gọi là An Lạc hoa viên.

Vài năm sau, năm 1307, công chúa Huyền Trân từ Champa về, cũng lánh ở núi Hổ, lập chùa Nộn Sơn để tu. Hai bà cháu mỗi người một chùa, ngày đêm cầu kinh niệm phật để vơi dần nỗi xót xa trong lòng mà hướng về cõi Niết bàn thanh tịnh. Mang danh là công chúa, nhưng phận số lại bẽ bàng buồn tủi còn hơn cả thường nhân, hồng trần nào có ý nghĩa chi đây?

Đến khi công chúa Thụy Bảo viên tịch, nhân dân xây bảo tháp ngay trong vườn An Lạc và chuyển chùa thành nơi thờ công chúa ngay giữa làng. Về sau, khi công chúa Huyền Trân mất, thì hai nữ sư vốn là công chúa thời Trần được dân địa phương tạc tượng thờ phụng hai Bà tại chùa Hổ Sơn trên núi Hổ để tưởng niệm.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *