Thứ sáu, ngày 24/10/2025 20:13 GMT+7
Trần Hòe Thứ sáu, ngày 24/10/2025 20:13 GMT+7
Bệnh viện Trung ương Huế thực hiện thành công ca ghép thận đầu tiên ở Việt Nam sử dụng máy bảo quản thận liên tục có hạ nhiệt.
Tối 24/10, Bệnh viện Trung ương Huế cho biết, Bệnh viện vừa thực hiện thành công ca ghép thận đầu tiên trên toàn quốc sử dụng máy bảo quản thận liên tục có hạ nhiệt (Hypothermic Machine Perfusion – HMP – LifePort Kidney Transporter).
Vào chiều tối 17/10, sau khi tiếp nhận thông tin từ Bệnh viện Thống Nhất TP.Hồ Chí Minh về việc có bệnh nhân hiến tạng, GS.TS Phạm Như Hiệp- Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế đã cử nhóm bác sĩ vào phối hợp đánh giá, hỗ trợ và tiến hành lấy đa tạng điều phối cho các bệnh nhân chờ ghép từ Trung tâm Điều phối ghép tạng quốc gia.

Bệnh nhân Bùi Thị P. L (SN 1964, trú TP.Hồ Chí Minh) hôn mê sâu không hồi phục, các kiểm tra đánh giá chết não được thực hiện theo quy trình và đưa đến kết luận lúc 21h ngày 17/10.
Được sự đồng ý hiến đa tạng của gia đình bệnh nhân, các bác sĩ Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Trung ương Huế bắt đầu tiến hành phẫu thuật lấy đa tạng.
Trong đó, tim để ghép cho bệnh nhân tại Bệnh viện Thống Nhất, 2 giác mạc và 1 quả thận được chuyển ra Bệnh viện Trung ương Huế, 1 quả thận còn lại ghép cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối tại Bệnh viện Thống Nhất.
Do bệnh nhân hiến tạng lớn tuổi và có bệnh đồng mắc nên việc đánh giá và lựa chọn người nhận phải sàng lọc cần nhiều thời gian. Nhóm bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế quyết định dùng phương pháp bảo quản tạng mới nhằm tối ưu chức năng thận ghép.
Quả thận sau khi được lấy ra khỏi người hiến tạng được đưa vào máy truyền dịch bảo quản liên tục và chuyển về Bệnh viện Trung ương Huế tiếp tục chờ đợi các xét nghiệm đánh giá hòa hợp giữa người nhận và hiến tạng.

Đây là lần đầu tiên tạng ghép được bảo quản theo phương pháp mới tại Việt Nam. Khác với phương pháp ướp lạnh truyền thống, hệ thống LifePort HMP cho phép bơm dung dịch bảo quản tạng – KPS-1 liên tục ở điều kiện hạ nhiệt có kiểm soát, giúp thận được “duy trì sự sống” trên đường vận chuyển từ TP.Hồ Chí Minh ra Huế.
Nhờ công nghệ này, quả thận hiến từ người cho chết não 61 tuổi, thuộc nhóm nguy cơ cao (đái tháo đường, tăng huyết áp…) vẫn được bảo tồn tối ưu và đạt chất lượng ghép tốt.
Thời gian thiếu máu lạnh 12 giờ, kỷ lục quốc gia trong lịch sử ghép tạng Việt Nam, minh chứng cho tính hiệu quả của công nghệ HMP trong mở rộng khoảng cách điều phối tạng và tăng tính khả thi cho nguồn tạng hiến có nguy cơ cao.
Sau khi có kết quả đánh giá phù hợp, các bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế tiến hành cấy ghép thận cho bệnh nhân Trần Q (SN 1983, trú phường Thanh Khê, TP.Đà Nẵng). Ông Q là người đã từng ghép thận cách đây 11 năm.
Cuộc phẫu thuật bắt đầu lúc 17h ngày 18/10 và kết thúc lúc 19h30 cùng ngày. Thận hiến từ người lớn tuổi có 3 nhánh động mạch nuôi dưỡng, sau hơn 12h thiếu máu lạnh đã bắt đầu hồi phục chức năng trong cơ thể bệnh nhân suy thận tại Bệnh viện Trung ương Huế.
Quá trình ghép kéo dài 2 giờ 10 phút với 4 miệng nối (3 động mạch và 1 tĩnh mạch), quả thận sau tái tưới máu hồng hào, căng chắc, có nước tiểu ngay trên bàn mổ (1.500 ml trong 6 giờ đầu).

Sau ghép, chức năng thận của bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, không cần lọc máu sau mổ, không có biến chứng hay thải ghép cấp.
Hiện bệnh nhân cảm giác khoẻ hơn, ăn uống và sinh hoạt tại phòng hồi sức ghép tạng với lượng nước tiểu ổn định, chức năng thận tiến triển tốt, các xét nghiệm trong giới hạn bình thường.
GS.TS. Phạm Như Hiệp cho biết: “Ca ghép thận sử dụng máy LifePort không chỉ khẳng định năng lực của đội ngũ Bệnh viện Trung ương Huế mà còn cho thấy Việt Nam đã làm chủ được công nghệ bảo quản tạng tiên tiến hàng đầu thế giới. Đây là bước tiến quan trọng về kỹ thuật giúp rút ngắn khoảng cách công nghệ, tối ưu hiệu quả điều phối và nâng cao chất lượng cấy ghép tạng trên phạm vi toàn quốc”.
Thành công trong việc ứng dụng công nghệ bảo quản thận bằng máy bảo quản thận liên tục có hạ nhiệt HMP LifePort đã đánh dấu bước tiến quan trọng của Bệnh viện Trung ương Huế trong hành trình chinh phục những đỉnh cao mới của y học hiện đại.
Phương pháp này không chỉ giúp kéo dài thời gian bảo quản, mở rộng khả năng vận chuyển tạng xuyên vùng miền, mà còn giảm tỷ lệ tổn thương tạng, góp phần nâng cao chất lượng ghép và hiệu quả sử dụng nguồn tạng hiến.