THỜI ĐẠI KHAI SÁNG Ở CHÂU ÂU (P.III): GIÁ TRỊ CỦA PHONG TRÀO KHAI SÁNG

Có một vài người khi đọc những bài viết về thời đại Khai sáng đã thân tình nêu thắc mắc rằng, thời đại đó đã trôi qua 300 năm, vậy thì việc tìm hiểu có ích lợi gì cho đời sống trong thế kỷ 21? Thật là một câu hỏi cực kỳ lý thú.

Nhưng sẽ lý thú hơn, khi các bạn tìm thấy câu trả lời theo phong thái trưởng thành mà triết gia khai sáng Immanuel Kant đề nghị: đi tìm sự thật mà không cần ai sắp đặt giùm, cũng không cần ai áp đặt hướng đi.

Vì thế, bài viết sau đây không có tham vọng giải đáp những câu hỏi trên, mà chỉ mong làm một xung lực kích thích tính tò mò đến người đọc, để từ đó mỗi người có một nhận định riêng nhằm trả lời cho chính câu hỏi mà mình đã đặt ra.

Không có một thời đại nào trong lịch sử tư tưởng loài người cho đến ngày hôm nay lại mang tính thời sự, đồng thời gây ra nhiều tranh cãi như thời đại Khai sáng.

Nhưng dù có nhận định ra sao thì cũng không ai có thể phủ nhận được, rằng thế giới hiện đại phương Tây đã khởi đầu bằng thời đại Khai sáng ở châu Âu.

Những thành quả đạt được về kinh tế, văn hóa, giáo dục, thể chế chính trị của hàng chục quốc gia phát triển hiện nay không tách rời khỏi các luồng tư tưởng chủ đạo của trào lưu Khai sáng.

Triết gia sáng lập Trường phái Frankfurt, giáo sư Max Horkheimer vốn thường phê phán kịch liệt sự thiển cận của một vài luồng triết học khai sáng, cũng “không có chút nghi ngờ rằng, tự do tạo được trong xã hội [hiện nay] không tách rời khỏi lối tư duy của những con người Khai sáng”.

Nhà cải cách nông nghiệp Arthur Young (1741-1820) viết vào năm 1789 rằng, trào lưu Khai sáng “mang những con người mới, sáng kiến mới, nỗ lực mới, hoạt động mới mẻ đến cho tất cả mọi lĩnh vực của nền công nghiệp” và quả thật đối với ông, cái gì cũng mới: “lòng hăng hái nhiệt tình, sinh lực mới, cảm hứng về xa hoa, lòng khao khát tiêu thụ, và phát triển công nghiệp”.

Từ bức tranh muôn màu đó chúng ta cũng thấy rằng, nếu khảo sát trào lưu Khai sáng với mong muốn sẽ tìm thấy những phương thuốc thần diệu khả dĩ, áp dụng được ở mọi nơi và trong mọi thời kỳ, thì chắc hẳn chúng ta sẽ thất vọng.

Nhưng sẽ vô cùng ích lợi, nếu chúng ta khảo sát mối tương quan giữa các biến cố lịch sử, các vấn nạn xảy ra trong từng thời kỳ, sau đó xem xét các phê phán cũng như sáng kiến mà học giả đương thời đưa ra.

Từ kết quả của quá trình phân tích và tổng hợp ấy, con người của thế kỷ 21 vẫn có thể rút ra những bài học bổ ích để áp dụng có chọn lọc và sáng tạo vào hoàn cảnh hiện tại của họ.

Đặc biệt với kinh nghiệm lịch sử đã được kiểm chứng qua trào lưu Khai sáng, chúng ta có thể rút tỉa được những vấn đề có tính nguyên lý để giải quyết các vấn nạn của thời đại chúng ta đang sống.

Montesquieu (1689-1755) chẳng hạn, ông không hề đề nghị một chế độ Tổng thống với lưỡng viện lưỡng đảng như thể chế chính trị Hoa Kỳ, cũng chưa từng đề cập đến một chế độ dân chủ đại nghị liên bang đứng đầu bởi Thủ tướng như mô hình Đức hiện nay.

Nhưng nguyên tắc tam quyền phân lập mà ông lý giải trong tác phẩm kinh điển Về tinh thần luật pháp được xuất bản năm 1748, là nguyên lý có sức mạnh vô song, được áp dụng trong các thể chế chính trị với cơ cấu nhà nước tương đối khác nhau của những nước nói trên.

Về khía cạnh này, Montesquieu đã thấy trước cách đây 250 năm rằng “khi con người có quyền lực trong tay, họ sẽ luôn bị thôi thúc dẫn đến việc lạm dụng quyền lực”, cho nên ông chủ trương phân quyền để đạt mục đích quan trọng là giới hạn sự lạm dụng quyền lực.

Đó là nguyên lý có giá trị như một phương thuốc thần diệu trong suốt hơn 200 năm qua, và chắc hẳn vẫn còn giá trị trong thời gian tới ở những nước theo thể chế dân chủ.

Ở các nước đó, nguyên tắc phân quyền được sử dụng như là phương tiện hữu hiệu để hạn chế sự lạm quyền, nạn tham nhũng và những bất cập khác liên quan đến quyền lực của chính trị gia và cơ quan nhà nước.

Bài học lớn trong lịch sử mà chúng ta quan sát được là, nếu biết học hỏi kinh nghiệm lịch sử từ các nước đã có những thành công ngoạn mục, để mà mang về áp dụng một cách chọn lọc và sáng tạo, thì các nước đi sau sẽ có thể rút ngắn thời gian gấp nhiều lần, và họ cũng có cơ hội đạt được đến phồn vinh, xã hội bình đẳng hài hòa, người dân hạnh phúc.

Văn minh phương Tây phát triển rực rỡ nhờ những sáng kiến trong thời đại Khai sáng, mặc dù lúc đó, việc quảng bá tư tưởng cũng gặp khó khăn vì nhiều tác phẩm quan trọng bị giáo hội Công Giáo đưa vào “Chỉ mục sách cấm phổ biến” (Index Librorum Prohibitorum).

Từ những sáng kiến đó và trong điều kiện xã hội còn độc đoán, các nước châu Âu cần đến 200 năm để biến chúng trở thành hiện thực và thụ hưởng phồn vinh tiến bộ cho đến bây giờ.

Tuy nhiên, những nước đi sau không nhất thiết phải cần một thời gian dài như thế. Với kinh nghiệm đi trước của phương Tây, nước nào biết sử dụng các sáng kiến đó một cách chọn lọc và sáng tạo, về lề lối tư duy và phương pháp hành xử, về thể chế chính trị và chính sách kinh tế, nước đó cũng có thể thành công trong vòng vài thế hệ.

Ở châu Á chẳng hạn, nước Nhật từ một quốc gia phong kiến lạc hậu đã thành công rực rỡ sau đợt canh tân 30 năm, kể từ thập niên 1870 dưới triều đại Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tennō). Quá trình phát triển của Nhật không tách rời khỏi triết lý Khai sáng và sự nghiệp chính trị của Fukuzawa Yukichi – nhà tư tưởng khai minh Nhật Bản.

Lý Quang Diệu (Lee Kwan Yew) trong vòng vài thập niên đã đưa Singapore từ một thành phố nhỏ bé nghèo nàn năm 1965 trở thành quốc gia phát triển giàu có không kém các cường quốc phương Tây.

Hàn Quốc đi sau Singapore 10 năm cũng đã thành công ngoạn mục sau chưa đầy 30 năm xây dựng từ đổ nát bởi cuộc chiến Nam-Bắc.

Cả ba nước châu Á này ít nhiều đều sử dụng các nguyên lý cốt lõi của thời đại Khai sáng về chính trị, kinh tế, khoa học cũng như về lý luận, tư tưởng trong tinh thần sáng tạo và phê phán để phù hợp với văn hóa bản địa, vừa tiếp thu văn minh phương Tây một cách có chọn lọc, vừa bảo tồn bản sắc châu Á.

Dù lời giải cuối cùng trong mỗi nước mỗi khác, nhưng cả ba nước châu Á nói trên đều có cách làm giống nhau:

Họ nghiên cứu cách phát triển xã hội phương Tây, về thành quả cũng như bất cập, thông qua sách vở, tài liệu, dịch vụ cố vấn, du học sinh, nghiên cứu thực địa ngắn và dài ngày, từ đó chắt lọc ra những điều phù hợp với đất nước của họ, loại bỏ những rủi ro có thể xảy ra, bổ sung thêm sáng kiến riêng để đưa ra phương cách thực hiện.

Nước Nhật bắt đầu quá trình “tìm hiểu phương Tây” (tiếng Nhật là Rangaku, nghĩa là Dutch learning hay rộng hơn là Studies of Western knowledge) từ thế kỷ 18, lúc triều đình nhà Nguyễn nước ta còn đang bế quan tỏa cảng.

Singapore, Hàn Quốc cũng đã làm như thế từ thập niên 70 của hậu bán thế kỷ 20, lúc Việt Nam vẫn chưa mở cửa, chưa đổi mới và chưa cho phép việc nghiên cứu và giảng dạy các luồng tư tưởng phương Tây trong đại học, nói gì tới các tư tưởng tiến bộ của trào lưu Khai sáng!

Trong gần nửa thế kỷ, nhiều lớp thanh niên sinh viên Việt Nam mất khả năng tiếp cận giai đoạn lịch sử quan trọng nhất của văn minh nhân loại.

Trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và kinh tế, chúng ta còn thấy nhiều thí dụ điển hình và có lẽ dễ giúp chúng ta thấy rõ mối liên hệ giữa các tiến bộ trong thế kỷ 21 với thời đại Khai sáng, trong hai thế kỷ 17 và 18:

Hầu hết chúng ta đang sống trong hệ thống kinh tế thị trường, nhưng không phải ai cũng biết đến vị tổ phụ Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên khám phá cơ chế hoạt động của thị trường.

Ông là người khái quát hóa lý thuyết về sự tương tác tự do giữa cung và cầu, là người tổng quát hóa phương pháp phân công lao động để áp dụng trong nền sản xuất năng suất cao, là người đầu tiên đòi hỏi tự do thương mại toàn cầu để nâng đều sự phồn vinh cho mọi quốc gia, kể cả những nơi mà trước đó người dân chưa hề được hưởng thành quả của phồn vinh.

Cũng không có gì ngạc nhiên khi tác phẩm kinh điển Phồn vinh các quốc gia của ông đã trở thành sách gối đầu giường của kinh tế gia suốt nhiều thế kỷ.

Một thí dụ thứ hai: Thanh niên mỗi ngày đều vài lần lướt mạng Facebook & Co. Ai cũng biết rằng nó chỉ hoạt động với phương tiện máy tính vạn năng. Nhưng dường như rất ít người biết rằng, chiếc máy tính mà họ đang dùng là phiên bản cải tiến kỹ thuật có nguồn gốc từ chiếc máy tính đầu tiên của Gottfried W. Leibniz (1646-1716).

Cũng chính Leibniz là người đầu tiên khám phá lý thuyết về hệ thống nhị phân (binary system) làm nền tảng lý thuyết cho các nghiên cứu sau này về máy tính.

Chúng ta có thể hình dung được chăng, có ai nghiên cứu phần mềm máy tính mà lại thiếu căn bản về mã số nhị phân (binay number coding), điều cũng do chính Leibniz khám phá đầu tiên vào cuối thế kỷ 17.

Và nhiều thí dụ khác trong các lĩnh vực hóa học, y khoa, vật lý v.v… cũng cho ta một cái nhìn về thành quả của trào lưu Khai sáng còn để lại ảnh hưởng đến hôm nay.

Từ góc nhìn đó, chúng ta không ngạc nhiên là, trong vòng ba thập niên sau Thế chiến II, thị trường sách biên khảo trên thế giới đã xuất hiện hàng hà sa số những tác phẩm nghiên cứu về thời đại Khai sáng.

Chưa kể hầu hết tác phẩm kinh điển của các học giả thời đại Khai sáng đều được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản rộng rãi khắp các nước. Giáo trình khoa nhân văn trong các đại học không hề thiếu chất liệu về thời đại đó.

Nhưng quan trọng hơn nữa là những công trình nghiên cứu sáng giá của các nhà sử học và triết gia thuộc tầm vóc quốc tế như Theodor W. Adorno, Crane Brinton, François Châtelet, Peter Gay, Paul Hazard, Eric J. Hobsbawn, Max Horkheimer, Roy Porter v.v…

Họ là những nhân chứng của nền văn minh hiện đại phương Tây trong hậu bán thế kỷ 20; họ có trí tuệ sâu sắc, tầm nhìn khách quan và tinh thần phê phán, để một mặt có thể tổng kết các nguyên lý và thành tựu của trào lưu Khai sáng.

Mặt khác từ góc nhìn phê phán, họ đã gởi ra những tín hiệu cảnh báo về các bất cập có thể xảy ra trong quá trình phát triển xã hội khi sử dụng các sáng kiến của thời đại Khai sáng.

Nguồn sách vở tài liệu đồ sộ đó đã phục vụ cho đủ loại người thuộc mọi giới: giới hoạch định chính sách trong các ngành kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục; người nghiên cứu triết học và lịch sử; tầng lớp giảng dạy đại học và sinh viên các ngành nhân văn.

Nhờ thế, sau vài thập niên, các khái niệm quan trọng trong công cuộc phát triển xã hội phương Tây nói chung đã trở thành hiển nhiên đối với mọi người, kể cả giới học sinh trung học cấp ba.

Thí dụ, tự do cá nhân là yếu tố không thể thiếu được trong việc phát triển nhân cách; tam quyền phân lập trong thể chế chính trị là nguyên lý cốt lõi để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực khả dĩ dẫn đến sự tha hóa của giới chính trị gia v.v…

Nguồn tư liệu đó đã đáp ứng nhu cầu độc giả rất lớn trong tình hình chính trị thế giới sau chiến tranh, lúc nhiều nước thuộc địa vừa mới giành lại độc lập khỏi tay Pháp và Anh. Họ có nhu cầu tìm hiểu chính sách xây dựng của các nước đã phát triển và đang mò mẫm tìm một con đường đúng đắn để tái thiết đất nước.

Các nguyên lý cốt lõi xuất phát từ thời đại Khai sáng về tự do cá nhân, thể chế chính trị, kinh tế thị trường, kết hợp với những phê phán của các học giả làm chứng nhân trong thế kỷ 20, chắc hẳn đã vạch đường cho một số nước châu Á và Nam Mỹ nhanh chóng vươn lên, khi họ có tư duy cởi mở và tư tưởng chưa gắn chặt vào một ý thức hệ nhất định.

Tại những nước đó, cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là luồng triết học Khai sáng và bên kia là ý thức hệ Marxist đã ngã ngũ sau vài thập niên giằng co.

Nhưng trào lưu Khai sáng không chỉ cống hiến cho chúng ta những sáng kiến mới để phát triển xã hội trong nhiều lĩnh vực, mà quan trọng hơn là nó đã đánh thức một ý thức mới trong lương tâm của chúng ta, làm sống dậy sức mạnh mới để tham gia việc xây dựng một nền văn hóa có năng lực, đề kháng chống lại các khung gò bó của quyền lực.

Viện sĩ hàn lâm Pháp, Paul Hazard tổng kết gãy gọn về con người Khai sáng rằng:

“Thay vì một nền văn hóa đặt nền tảng trên sự vâng lời theo nghĩa vụ đối với Thượng Đế và đối với các lãnh chúa vương triều, thì các triết gia thời đại mới muốn xây dựng một nền văn hóa đặt trên nền tảng của các sáng kiến về lẽ phải và các quyền cơ bản: quyền xây dựng lương tâm cá nhân, quyền được phê phán, quyền tuân theo lẽ phải, quyền con người và quyền công dân“.

Đấy là những giá trị tinh thần vô cùng cần thiết cho thanh niên và trí thức trong mọi quốc gia, Việt Nam ta cũng không phải là một ngoại lệ.

Khi mà ở nước ta, thanh niên và trí thức vẫn còn thờ ơ vô cảm với các diễn biến xảy ra hàng ngày, khi họ không cảm thấy hân hoan với những thành quả mà xã hội đang hưởng, khi họ không đau lòng vì những bất cập lâu ngày không xóa bỏ được, khi họ sợ hãi không dám lên tiếng bênh vực lẽ phải.

Thì khi ấy, quốc gia đã mất đi năng lực tự điều chỉnh vốn dĩ rất cần thiết để không ngừng cải cách, nhằm đưa xã hội vươn đến tiến bộ hùng cường.

Trong trường hợp đó, khi một sai lầm lớn xảy ra hoặc khi bị tấn công từ bên ngoài, thì quốc gia sẽ suy tàn. (Có guồng máy chính trị nào mà không mắc phải sai lầm? Và có lân bang nào không uy hiếp chúng ta khi họ có điều kiện?).

Mọi chính sách được thiết kế để mang tiến bộ cho xã hội đều hàm chứa những thoái bộ tiềm ẩn khó lòng thấy trước. Cho nên, vấn đề là xem cơ chế nào có thể phát hiện kịp thời những thoái bộ để điều chỉnh, tích hợp chúng vào lời giải sau cùng và làm cho xã hội tốt hơn.

Về mặt đó, các sáng kiến trong thời đại Khai sáng về việc tổ chức xã hội thật vô cùng có ích.

  • Trước hết, cơ quan chủ quản của nhà nước cần có bộ phận thường xuyên kiểm tra để phát hiện. Cơ chế này tuy cần, nhưng thường phản ứng chậm vì tính bảo lưu, chủ quan, thiên vị và bộ máy rườm rà.
  • Thứ hai, xã hội cần những cơ quan tư vấn và kiểm tra độc lập, dù dân sự hay thuộc nhà nước, không chịu sự chi phối của các cơ quan chủ quản nói trên. Cơ chế này phản ứng nhanh và khách quan, nhưng lại không có quyền lực ảnh hưởng đến chính sách, nếu không có những phương tiện khác đi kèm hỗ trợ.
  • Thứ ba, và quan trọng nhất, là hệ thống truyền thông đại chúng, tư nhân cũng như nhà nước. Thông thường, các thoái bộ sẽ được phát hiện sớm nhất bởi chính nạn nhân của những bất cập trong xã hội; và hệ thống truyền thông đại chúng phải làm tròn chức năng của họ, đó là lên tiếng báo động để các phản ứng về các bất cập đó sẽ trở thành sức ép của dư luận công cộng.

Tất nhiên, cơ chế quan trọng hàng đầu này chỉ hoạt động hữu hiệu trong một quốc gia dân chủ, có bầu cử và ứng cử tự do, vì nói cho cùng, lá phiếu cử tri là phương tiện hữu hiệu nhất để đòi hỏi nhà nước phải giải quyết các bất cập trong xã hội, khi chúng đã trở thành sức ép của dư luận.

Từ góc nhìn đó, chúng ta thấy rằng, vai trò của thanh niên trí thức đóng vai trò rất quan trọng bằng chức năng phản hồi trong chu trình điều chỉnh, cũng như trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình thúc đẩy việc xóa bỏ các bất cập trong xã hội.

Bằng không, cho dù có trở thành bác học, thì họ cũng chỉ được gọi là những người lao động trí óc, chứ chưa đáng để được gọi là trí thức.

Trong trách nhiệm xã hội đó, hoạt động dân sự với phương tiện truyền thông đại chúng không thể thiếu được đối với người trí thức chân chính. Ở khía cạnh đó, trào lưu Khai sáng cho chúng ta bài học gì?

Nếu các triết lý chính trị của thời đại Khai sáng cung cấp cho những nhà hoạch định chính sách các sáng kiến để tìm hướng đi hòng xây dựng xã hội, thì các triết gia đạo đức cung cấp cho thanh niên trí thức những ý tưởng vô cùng sống động để hành xử trong những xã hội còn bị thống trị bởi quyền lực.

Những ý tưởng đó là rất cần thiết để tham gia vào các bước phát triển xã hội, chí ít cũng giúp cho thanh niên trí thức định được hướng đi trên con đường tự rèn luyện nhân cách: Tính tự chủ, độc lập suy nghĩ, yêu tự do, bình đẳng xã hội và, điều cuối cùng là lòng dũng cảm sẵn sàng lên tiếng và hành động để bênh vực lẽ phải.

Trong tinh thần đó, trào lưu Khai sáng đã sản sinh ra hàng loạt con người có tri thức và ý thức đối với xã hội: triết gia, văn thi sĩ, ký giả, kinh tế gia, khoa học gia, sử gia, nhà phê phán v.v…

Họ không phải là những người có ăn học để chỉ biết lao động trí óc trong lĩnh vực chuyên môn, mà còn có ý thức sử dụng truyền thông đại chúng và các phương tiện đang có trong tay để góp phần mình vào công cuộc chuyển hóa xã hội.

Đối với các nước mới phát triển sau này, việc tìm hiểu về thời đại Khai sáng càng có tầm quan trọng đặc biệt, khi chúng ta phân tích thấu đáo bối cảnh lịch sử châu Âu trong hai thế kỷ 17 và 18. Đó là thời kỳ của nhiều cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng cũng là thời kỳ có đầy rẫy mâu thuẫn xung khắc.

  • Một mặt, tư tưởng và ý thức con người đang trên bước đường thay đổi tận gốc rễ – có thể xem là một sự biến đổi hệ hình (paradigm shift) trong lĩnh vực tư tưởng. Hơn thế nữa, sáng kiến của học giả và chuyên gia đã bắt đầu thâm nhập vào mọi giới, tạo nên một ý thức chính trị xã hội rất sống động.
  • Mặt khác, các định chế chính trị và tôn giáo đã trở nên lỗi thời, vẫn còn mang sức trì trệ, có tác động cản trở sự tiến bộ. Trên bình diện xã hội, đó là mâu thuẫn giữa một bên là lòng khao khát tự do, tính tự chủ và yêu công lý của những người dân, bên kia là quyền lực vô biên đòi hỏi đám đông phải vâng lời và thuần phục.

Mâu thuẫn gay gắt ấy tưởng chừng không có lối thoát. Thế mà họ vẫn giải quyết được để mà đưa cả lục địa vươn lên. Lời giải của họ thế nào chắc hẳn vẫn còn có ích cho các quốc gia khác ngày hôm nay.

Theo thống kê của IMF (Internation Monetary Fund), có 40 nước giàu nhất với thu nhập đầu người (GDP per capita) trên 25.000 US$ mỗi năm, trong đó có 16 nước ở ngoài châu Âu.

Ngoại trừ bốn nước Macau, Qatar, Kuwait và Bahrain, vốn là những nước sống nhờ dầu mỏ và khó có thể xếp vào loại chế độ chính trị cụ thể nào, còn lại thì tất cả các nước khác đều có thể chế chính trị dân chủ đại nghị, áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập, dựa trên tinh thần của thời đại Khai sáng mà tư tưởng đại diện là John Locke và Montesquieu.

Điều này có thể giúp ta tạm kết luận rằng, những sáng kiến về tự do, dân chủ, định chế chính trị, công bằng xã hội xuất phát từ triết lý chính trị Khai sáng là những yếu tố quyết định, khiến cho các nước nói trên đã có sự phát triển về con người, và trên cơ sở đó, giúp phát triển xã hội về mọi mặt.

Thêm một vấn đề rất lý thú cho thanh niên trí thức: Khi tìm hiểu bối cảnh lịch sử của thời đại Khai sáng, chắc hẳn các bạn sẽ đặt một câu hỏi, từ đâu mà họ có đủ trí tuệ và ý chí vượt qua mọi khó khăn của hai thế kỷ 17 – 18, để đưa cả lục địa vươn lên hàng đầu thế giới?

Có phải châu Âu đã giàu có từ hai thế kỷ đó?

Không! Ở đầu thế kỷ 17, họ còn rất nghèo.

Ngoại trừ tầng lớp vua chúa, quan lại và hàng giáo phẩm có đời sống sung túc xa hoa, còn lại đa số dân chúng chỉ mới ở giai đoạn ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, y phục tuy chưa đẹp nhưng lòng khao khát tri thức thì vô biên, và tri thức khoa học của họ chính là nền tảng tạo nên những phồn vinh mà chúng ta có hôm nay.

Có phải đất nước của họ đã là dân chủ tự do?

Không! Đến gần cuối thế kỷ 18, tất cả các quốc gia trên lục địa đều duy trì chế độ phong kiến áp bức.

Thế nhưng, giới học giả vẫn tự thành lập những diễn đàn tư nhân để bàn luận về tự do, và rồi biến những giấc mơ dân chủ thành hiện thực trong vòng một thế kỷ sau đó.

Có phải họ đã có những quyền tự do căn bản, chẳng hạn như tự do ngôn luận?

Không! Cho đến đầu thế kỷ 19, sách vở nào không phù hợp với vương triều hoặc giáo hội đều bị cấm phổ biến, chẳng hạn các tác phẩm của Descartes, Galilei, Bacon, Kant…

Tuy vậy, bằng nhiều cách, các sách vở Khai sáng vẫn được lan truyền. Ý thức hành động và lòng dũng cảm của họ đã làm cho hơn 3/4 nhân loại ngày nay được hưởng các quyền tự do căn bản của con người.

Trên đây là một số gợi ý ban đầu. Nhưng vẫn còn một số khía cạnh trong công cuộc chuyển hóa văn hóa xã hội đành phải tạm gác lại và chưa nói tới:

Như cấu trúc đại gia đình đã thay đổi; quyền lực cha mẹ lên con cái cũng như quyền lực của người chồng lên vợ đã từng bước giảm xuống; phụ nữ có nhiều tự do hơn trong việc chọn lựa bạn đường;

Cách nhìn và lối giáo dục trẻ em bắt đầu được đặt lên bàn mổ của ngành sư phạm, nhất là từ lúc Rousseau xuất bản tiểu thuyết giáo dục Émile năm 1762;

Vai trò của văn thi sĩ ngày càng quan trọng trong việc tự đào luyện nhân cách; nông dân và công nhân tầng thấp đã bắt đầu tự tin hơn trong quan hệ xã hội vốn vẫn còn phân hóa giai cấp v.v…

Để tạm chấm dứt bài tiểu luận này, xin trích dẫn một nhận xét ngắn gọn, nhưng có ý nghĩa về thời đại Khai sáng:

“Thế giới cần được cai trị bởi lý trí và phẩm hạnh, để con người có thể sống tự do và hạnh phúc.

Giấc mơ này không có gì mới, nhưng hình thái mà nó diễn đạt và phong thái dấn thân mà nó xuất hiện, đã làm cho thời đại Khai sáng vượt hẳn lên trên mọi kỷ nguyên khác.

Thuật ngữ Khai sáng tự nó đã là thước đo của tính hiện đại.” (Hết)

Tôn Thất Thông

Ảnh: Thời đại Khai sáng đã đánh dấu bước tiến bộ không ngừng của nhân loại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, cũng như sự thay đổi vĩnh viễn trong nhận thức về vị trí, vai trò và tư cách của con người.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *