“Rồi sẽ đến một lúc, ánh mặt trời trên quả đất chỉ tỏa sáng cho những con người tự do – những người không chịu thừa nhận bất cứ ai là chủ nhân, ngoại trừ lý tính của chính mình.
Còn những kẻ độc tài, người nô lệ, giáo sĩ và công cụ của họ sẽ chỉ còn hiện hữu trong sử sách và trên sân khấu kịch nghệ…” _ Marquis de Condorcet (1743-1794)
Trào lưu Khai sáng đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến với cao điểm là hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp, để chuẩn bị bước sang chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ thế kỷ 19 với các định chế chính trị dân chủ xuất hiện trên khắp lục địa.
Dần dần, hầu hết các nước châu Âu và Bắc Mỹ đều đã bắt đầu xây dựng thể chế chính trị dựa trên nguyên tắc công pháp và phân quyền.
Đó là thành quả lớn lao của trào lưu Khai sáng trong thế kỷ 18, làm bàn đạp cho những thay đổi xã hội tại châu Âu và Bắc Mỹ trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn chương, triết học.
Giá trị của thời đại Khai sáng
Không có một thời đại nào trong lịch sử tư tưởng loài người cho đến nay mà vẫn còn mang lại tính thời sự, đồng thời gây ra nhiều tranh cãi như thời đại Khai sáng.
Nhiều người nhìn các tư tưởng mới lạ trong thời đại Khai sáng như là phương thuốc thần diệu để giải quyết các vấn nạn của thời đại, và định hướng cho cả xã hội tương lai sau này.
Người khác thì cho rằng các sáng kiến trong thời đại đó, kể cả sáng kiến của những nhân vật hàng đầu, là ảo tưởng.
Một số người khác trong hai thế kỷ 19 và 20 tiếp theo lại phê phán rằng, các tính chất gọi là tiến bộ của thời đại Khai sáng chính là mầm mống của các vấn nạn xã hội chưa tìm được lời giải.
Nhưng dù theo xu hướng nào thì cũng không ai nghi ngờ rằng, thế giới hiện đại như chúng ta đã thấy ngày hôm nay được bắt đầu từ những thành quả của thời đại Khai sáng. Diện mạo của châu Âu và cả thế giới phương Tây cũng bắt đầu được định hình nhờ những sáng kiến của thế kỷ đó.
Nền triết học và tư tưởng tự do được nảy mầm trong thời đại này là cội nguồn tinh thần của những sáng kiến, thử nghiệm, phát minh trong mọi lĩnh vực từ khoa học, kỹ thuật cho tới kinh tế, thương mại, và nhất là, các định chế chính trị hiện đại hôm nay đều là sản phẩm có xuất xứ từ thời đại Khai sáng.
Mặt khác, đi kèm với sự phát triển vũ bão trong công nghiệp là nhu cầu cấp thiết về nguồn cung ứng nguyên liệu để phục vụ cho việc sản xuất.
Vào lúc đó, dường như lòng tham của người châu Âu vẫn còn chưa lùi bước trước lẽ phải và đạo đức, cho nên, thời đại Khai sáng cũng đánh dấu bước khởi đầu của chính sách bành trướng thuộc địa trên ba lục địa còn lại là châu Á, Phi và Úc, một chính sách kéo dài hơn một thế kỷ với bạo lực, đàn áp và bóc lột. Nó để lại hậu quả vô cùng đậm nét cho đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không vì những phản đề với nhiều hệ lụy sâu sắc ảnh hưởng lên các nước thuộc địa, mà chúng ta phủ nhận những thành tựu to lớn của thế kỷ Khai sáng và vai trò quyết định của nó trong tiến trình lịch sử nhân loại nói chung.
Trào lưu tư tưởng chủ đạo của thời đại đó, dù chưa hoàn chỉnh, thậm chí thiếu sót trong mối tương quan với các đòi hỏi đa diện trong thời đại chúng ta, vẫn là xung lực mở đầu cho những phát minh vĩ đại đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển hôm nay trong mọi lĩnh vực từ văn hóa, khoa học, kỹ thuật đến kinh tế và chính trị.
Đồng thời cũng đã mở đường cho những ngành khoa học mới mẻ chưa từng có trước đó có cơ hội phát triển. Tâm lý học, xã hội học, kinh tế chính trị học chỉ là vài thí dụ điển hình.
Ý nghĩa của Khai sáng
Khai sáng – hay được gọi trong các ngoại ngữ quen thuộc như Siècle des Lumières (Pháp), Enlightenment (Anh), Illuminismo (Ý) – đều có một tính chất giống nhau, ấy là ánh sáng.
Như ánh mặt trời buổi rạng đông đẩy lùi bóng tối đêm trước, thì ánh sáng của lý tính trong thời đại Khai sáng cũng đẩy lùi mê tín, ngu muội, sự thuần phục cường quyền để dọn đường cho sự tiến bộ mới, hệ tư tưởng mới, tạo nên những con người mới và các định chế mới.
Trong tiếng Đức, thuật ngữ Khai sáng (Aufklärung) có ý nghĩa rộng hơn, được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, nhưng đều có ý nghĩa giống nhau, đó là làm cho mọi chuyện trở nên sáng sủa rõ ràng, từ đó chân lý tất nhiên được hiển lộ.
Thuật ngữ này có liên hệ ít nhiều đến tác phẩm nghệ thuật Aufklärung của Daniel Chodowiecki, một nghệ sĩ nổi danh của Phổ đã sáng tác nhiều tác phẩm liên quan đến thời đại Khai sáng.
Bức tranh của ông (đăng ở dưới) diễn tả một kỵ sĩ dẫn đầu cỗ xe ngựa đơn độc đi trên con đường mòn tiến về khu dân cư với biểu tượng quen thuộc là tháp chuông nhà thờ.
Ở mặt tiền bức tranh là những bóng cây tối tăm tượng trưng cho ngu muội u ám, nhưng sắc màu nổi bật trong toàn cảnh lại là ánh bình minh tỏa ra rực rỡ sau rặng núi xa xa, phủ sáng khu dân cư và đánh tan màn sương mờ buổi sáng.
Tác giả Chodowiecki diễn giải nội dung bức tranh như sau:
“Ý nghĩa cao nhất về lý tính ẩn chứa trong tác phẩm này, cho đến nay vẫn chưa làm cho mọi người hiểu được tính biểu tượng mang ý nghĩa trong sáng phổ quát ngoài vầng thái dương đang vươn dậy (có lẽ vì bản thân vấn đề vẫn còn quá mới mẻ).
Chắc hẳn, nó sẽ còn tồn tại lâu dài với dáng vẻ đoan trang nhất, tương phản với lớp sương mù che khuất vạn vật […]. Khi ánh mặt trời đã tỏa sáng thì lớp sương mù dày đặc kia cũng không thể làm gì tai hại được nữa.”
Nguồn cơn của thời đại Khai sáng
Để đi tìm nguồn gốc phát sinh trào lưu Khai sáng, chúng ta cần xem xét bối cảnh lịch sử và đặc tính xã hội ở các vùng văn hóa khác nhau, đặc biệt là tại ba nước Anh, Pháp và Đức, nơi trào lưu Khai sáng xảy ra rất nhộn nhịp, phong phú và mức độ xung đột cũng rất gay gắt.
Ngay từ trước, xã hội châu Âu đã luôn phản ứng với các trào lưu mới bằng những tốc độ khác nhau, tùy thuộc vào truyền thống văn hóa tại mỗi nước kết hợp với ảnh hưởng của các xứ láng giềng.
Bước vào thời hiện đại, tại mỗi nước, giới học giả tiên phong tự nhận thức được hoàn cảnh riêng của mình và của người khác trong xã hội, từ đó, họ tìm phản ứng cho những biến cố thực tế để hoàn thành nhiệm vụ do chính mình đặt ra trong ý thức cải tạo xã hội.
Vì thế, nguyên nhân đưa đến trào lưu Khai sáng ở mỗi vùng tất yếu mỗi khác.
Tuy nhiên, trên bình diện rộng ở lục địa châu Âu, trào lưu Khai sáng ở các vùng đều có chung một xuất phát điểm giống nhau, ấy là phản ứng tâm lý do sự khủng hoảng về ba niềm tin: đối với chính trị, đối với tôn giáo và đối với chính bản thân mình.
- Thứ nhất, về mặt chính trị, châu Âu từ thế kỷ 17 đã chứng kiến sự chuyển hóa sâu sắc về quan hệ con người trong xã hội. Các cuộc chiến tranh tôn giáo và nội chiến đã tàn phá sâu sắc cấu trúc xã hội.
Dù mỗi nước có những định chế chính trị khác nhau, nhưng cái trật tự xã hội phong kiến trên khắp nơi đều đang từng bước lung lay sụp đổ. Đồng thời, tầng lớp trung lưu tư sản phát triển ngày càng đông, chi phối đời sống kinh tế trong xã hội, trong chừng mực cũng làm phân hóa tầng lớp quí tộc và hàng giáo sĩ vốn trước đây được hưởng nhiều đặc quyền dưới chế độ phong kiến.
Sự phát triển của giới trung lưu tư sản khởi đầu từ tình hình kinh tế và thương mại phát triển suốt gần hai thế kỷ, làm cho đời sống sung túc hơn, nhu cầu nâng cao kiến thức nhiều hơn, khả năng tiếp cận giáo dục đại học cũng cao hơn.
Nhờ thế, với tri thức thu lượm được, họ dần nhận thấy sự bất lực và phi lý của các định chế chính trị có sẵn. Từ đó, ước muốn thay đổi chế độ phong kiến là một yêu cầu cấp thiết không thể tránh khỏi, mặc dù đa số các học giả đều xuất thân từ giới quí tộc giàu sang và có quyền lợi gắn bó với chế độ phong kiến đương thời.
Có thể nói, thế kỷ 17 và 18 chứng kiến sự trỗi dậy của ý thức hệ tư sản châu Âu, và gắn liền với nó là sự hình thành những chế độ chính trị hiện đại hơn.
- Thứ hai, về mặt tôn giáo, người châu Âu ở ngưỡng cửa những năm 1500 bắt đầu đặt lại nhiều vấn đề về tôn giáo.
Họ vẫn hết lòng tin vào Thượng Đế toàn năng toàn trí, nhưng dần nghi ngờ về những lý giải huyễn hoặc của hàng giáo sĩ, thậm chí còn nghi ngờ cả tri thức và tính chính danh của Giáo Hoàng.
Những phát hiện mới trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, đặc biệt là tư tưởng cách mạng của Nicolaus Copernicus về vũ trụ, đã làm cho nhiều người đương thời nghi ngờ về thế giới quan và vũ trụ quan của hàng giáo phẩm, vốn dĩ là hệ tư tưởng cứng nhắc, bất di dịch của triết lý thần học được quảng bá suốt hơn một ngàn năm qua.
Lòng tin vào tôn giáo càng bị lung lay hơn sau khi Kitô giáo bị phân liệt vào thế kỷ 16 và gắn liền với nó là làn sóng đàn áp, sát hại các tín đồ thuộc tông phái khác, đi kèm với nhiều cuộc chiến tranh vô nghĩa mà cao điểm là “cuộc chiến tranh 30 năm” khốc liệt ở tiền bán thế kỷ 17.
Nhưng điều làm cho lòng tin giảm sút nặng nề là thái độ của giáo hội về những phát hiện mới trong khoa học tự nhiên. Dường như sức ỳ của ý thức hệ đã khiến cho tư tưởng của họ trở nên chật hẹp, trí tuệ bị thui chột và làm họ mất đi khả năng tiếp thu những điều mới mẻ.
Khi những phát hiện của khoa học gia tiến bộ đi ngược lại nền tảng lý luận của giáo hội thì các tác phẩm liên quan bị cấm phổ biến và tác giả bị trù dập.
Sự kiện tác phẩm của Nicolaus Copernius – “Về chuyển động vòng của các hành tinh” – bị cấm năm 1622 và phiên tòa xét xử Galileo Galilei năm 1633 là những giọt nước tràn ly làm cho niềm tin của khoa học gia vào giáo hội và Giáo Hoàng sụp đổ.
Khi quan sát thế kỷ 18, chúng ta thấy rằng khoa học tự nhiên càng phát triển thì niềm tin của con người vào giáo lý Kitô càng giảm sút. Và đó cũng là nguyên do khiến cho tư tưởng của nhiều học giả thay đổi để tự phát triển tinh thần độc lập, duy lý, duy nghiệm, thay vì chỉ chăm chăm định hướng niềm tin vào thần học một cách mù quáng.
- Thứ ba, về sự bất lực của con người trước những vấn nạn xã hội trong quá trình suy đồi của chính trị và tôn giáo: Uy tín của vương triều và giáo hội càng suy giảm thì họ càng sử dụng nhiều phương tiện bạo lực hòng duy trì quyền lực.
Nhưng con người thì vẫn bó tay thuần phục. Nhiều học giả hàng đầu đã phải bỏ xứ ra đi, trốn chạy đến các nước có chế độ khoan dung hơn, như Pierre Bayle, Voltaire chẳng hạn.
Các triết gia vẫn bế tắc trên con đường tìm kiếm một lời giải. Giáo sư Paul Hazard đã dùng nguyên một cuốn sách để phân tích sự khủng hoảng về lòng tự tin của con người, và cũng là khủng hoảng về lương tâm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thế kỷ.
Cả thế quyền lẫn thần quyền đều trở thành những thế lực hủ bại.
Ở khắp nơi trên lục địa thường xuyên xảy ra các cuộc tranh chấp biên giới. Trong nội bộ quốc gia (nếu quả thật có cái gọi là quốc gia trong một vùng văn hóa nhất định) các tầng lớp thống trị – như vương triều, lãnh chúa, tướng tá sĩ quan, Tổng giám mục và thương gia – đang điên cuồng tranh nhau chia chác những của cải thu được từ thiên nhiên và công chúng.
Các học giả can đảm, vốn dĩ cũng là nạn nhân của cấu trúc xã hội đó, không còn con đường nào khác ngoài việc dùng những phương tiện có sẵn để bày tỏ thái độ phê phán. Nhưng ở thế kỷ 17, phương tiện họ có trong tay thì quả là yếu ớt.
Sự trăn trở của các học giả
Từ sự khủng hoảng niềm tin với chính mình vì bất lực trước thời cuộc, các triết gia đương thời đã tha thiết tự đặt ra nhiệm vụ, đó là phải tìm đường để cải thiện thế giới.
Họ không tìm lời giải bằng cách phục hồi lại một quá khứ đầy lý tưởng, mà bằng sự tự tin vào sức mạnh của chính mình, sức mạnh của lý tính và sức mạnh của lương tâm trong ý thức cải tạo xã hội.
Kể từ thời đại này, viễn kiến của con người không còn là sự hoài niệm về một cuộc đời đáng mơ ước trong thế giới thần thánh, mà là hướng nhìn về một tương lai tươi đẹp ngay trên trần thế. Hơn nữa, họ cũng có ham muốn hành động để biến ước mơ đó thành sự thật.
Sự chuyển biến này về tư tưởng, đi kèm với kỹ thuật in ấn phát triển và hàng loạt tạp chí định kỳ bằng tiếng địa phương ra đời, đã gây được ảnh hưởng lớn lên nhiều tầng lớp trong xã hội, thay đổi phong cách sống và suy nghĩ của thanh niên, sinh viên và tạo nên một ý thức chính trị sống động trong công chúng.
Đó chính là gốc rễ sâu xa của cuộc vận động Khai sáng, với kết quả là hai cuộc cách mạng vĩ đại làm rung chuyển thế giới vào cuối thế kỷ, trước hết là ở Mỹ năm 1776, và kế đến là tại Pháp năm 1789.
Hai cuộc cách mạng nói trên là hai trong những thành quả lớn lao nhất của thời đại Khai sáng. Nó làm sáng tỏ một quan điểm chính trị mới mẻ và đáng kinh ngạc, mà con người chưa từng trải nghiệm trước đó.
Quan điểm đó được John Locke (1632-1704) tóm tắt rằng, mọi người sinh ra đều có quyền sống, hưởng tự do và sở hữu tài sản. Chính phủ chỉ được xem là hợp pháp, khi nó thừa nhận và bảo vệ các quyền tự nhiên đó. Chính phủ nào không làm được việc đó, thì mọi người có quyền (và nghĩa vụ) chống lại.
Mặc dù quan điểm này đã được phát triển, thảo luận trong giới học thuật trước đó cả thế kỷ, nhưng khi nó trở thành hiện thực, thì cơn địa chấn vẫn bùng ra, kéo dài và lan rộng đến mọi nước trên lục địa.
Quan điểm chính trị nói trên đã được hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp thực hiện trọn vẹn; không những người dân có khả năng chống lại chính phủ chuyên chế đương thời, mà còn hạ bệ chúng để xây dựng thể chế chính trị mới với hiến pháp mới, có đầy đủ những qui định bảo vệ quyền tự do tự nhiên của con người.
Nói tóm lại, trào lưu Khai sáng có nguồn gốc từ sự dằn vặt nội tâm của con người trong thời đại đó, khi một mặt, tư tưởng và niềm tin đã thay đổi sâu sắc, nhưng mặt khác, họ lại không tìm thấy trong các định chế thần quyền và thế quyền một lời hứa hẹn cụ thể nào cho tương lai phù hợp với thế giới quan của họ, vốn dĩ đã thay đổi khi châu Âu bước vào thời kỳ hiện đại.
Con đường họ đi cũng không còn mang tính thụ động và thuần túy học thuật của trào lưu nhân bản chủ nghĩa trong thời đại Phục hưng, mà đã mang ý nghĩa cải cách xã hội một cách tích cực và triệt để, bắt đầu bằng sự rèn luyện nhân cách và lý tính cho bản thân.
Sau đó, từ bản thân họ quảng bá những tư tưởng mới ra đại chúng, chuẩn bị tinh thần và xây dựng lực lượng, để dần biến những xung đột về tư tưởng trở thành các hoạt động thực tiễn có chủ đích – đó là những cuộc cách mạng.
Đặc trưng của con người thời đại Khai sáng
Thế kỷ 18 là một thế kỷ đầy rẫy phản kháng dưới nhiều hình thức. Những con người Khai sáng đều không muốn thuần phục cái trật tự có sẵn. Họ không muốn lặp lại những giáo huấn đã được truyền bá trước đây.
Từng cá nhân sẵn sàng ném mình vào những cuộc đấu tranh cho công lý, cho thành đạt cá nhân, cho danh dự, cho sự thật được kiểm chứng bằng khoa học, cho hạnh phúc của công chúng mà họ là thành viên.
Trong lịch sử của văn hóa phương Tây, thế kỷ 18 nổi lên như một ốc đảo đầy nước ngọt và cây xanh giữa bãi sa mạc hoang vu khô cằn.
Ý tưởng về tinh thần Khai sáng hội tụ với nhau trong thế kỷ 17 để phát triển rực rỡ trong thế kỷ 18, nhưng trong sự xuất hiện và chuyển hóa của từng giai đoạn, chúng ta có thể thấy dáng dấp tương đồng với thời đại Phục hưng trong hai thế kỷ 15 – 16.
Con người Khai sáng, con người Phục hưng và các nhà nhân bản giống nhau ở cảm giác an toàn do chính họ tạo ra, khi họ không còn nhu cầu phải nương tựa vào bất kỳ một sức mạnh nào ở bên ngoài. Đối với họ, “Tri thức là sức mạnh!” như khẩu hiệu đanh thép của Francis Bacon vào đầu thế kỷ 17.
Nếu thời đại Phục hưng được định hình bởi phần đông là những văn thi sĩ, nghệ sĩ, nhà sử học, nhà giáo thì trong thời đại Khai sáng, bên cạnh lớp người quen thuộc đó còn nổi bật lên nhiều triết gia, nhà tư tưởng, nhà toán học và nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Cũng chính vì thế, so với thời kỳ Phục hưng, ý thức độc lập của họ đối với tôn giáo và các định chế thần quyền được nâng lên một tầm cao hơn, với nhiều phát hiện phong phú trong khoa học làm họ vững tin hơn trong cuộc hành trình mới.
Nhất là, những phát hiện mới mẻ của họ không chỉ dựa trên tư duy lý luận như trong quá khứ, mà nhiều lập luận của họ đã được kiểm nghiệm bằng những quan sát và phân tích các hiện tượng trong tự nhiên.
Đấy là một đặc trưng của nền văn minh hiện đại, một bước chân bảy dặm so với tiến trình phát triển lịch sử suốt hơn hai ngàn năm trước, kể từ thời Hy Lạp cổ đại.
Con người của thời đại Khai sáng vẫn là những người ngoan đạo, tin vào Thượng Đế, nhưng không phải là Thượng Đế trong thần học giáo điều với những phán quyết thần thánh, mà là Thượng Đế có Lẽ phải (tức sự đúng đắn) đứng trên vạn vật.
Giờ đây, các yếu tố chi phối mạnh mẽ lên đời sống con người và tiến trình phát triển của xã hội không còn là mặc khải thần thánh, mà là các khái niệm của “chuyên gia” thuộc mọi ngành, từ triết học đến khoa học và kỹ thuật.
Giữa Phục Hưng và Khai sáng
Điều khác nhau đặc biệt sau chưa đầy hai thế kỷ là, trong lúc phong trào Phục hưng xuất phát từ Ý và chính các nhà nhân bản Ý vạch hướng đi cho các nước châu Âu còn lại, thì ngược lại, trào lưu Khai sáng bắt đầu từ nước Anh, nó thăng hoa ở Pháp, tiếp tục phát triển ở Đức và sau đó mới lan tỏa ra các vùng khác trên lục địa.
Nước Ý chỉ mới dè dặt bắt đầu khi trào lưu này đã lên đến đỉnh cao ở các nước đi tiên phong, mặc dù như chúng ta biết, Galileo Galilei – một người Ý, là một học giả nổi danh vào buổi bình minh của thời đại Khai sáng.
Tại sao có nghịch lý này? Điều đó có liên quan gì đến sự việc Giáo Hoàng và Giáo hội Thiên chúa vẫn ngự trị ở Rome? Nó có liên quan gì đến phiên tòa xử Galilei năm 1633? Trong phần sau chúng ta sẽ trở lại đề tài này.
Nhưng dù sao, khi so sánh hai thời đại Phục hưng và Khai sáng, chúng ta cũng không thể quên một công trình vĩ đại mà các nhà nhân bản Ý trong thời đại Phục hưng để lại cho các nhà Khai sáng sau này thừa hưởng, đấy là ý thức sử dụng tiếng mẹ đẻ trong các tác phẩm văn hóa cũng như trong một số ít giáo trình đại học.
Sự kiện đó đã phá vỡ các rào cản còn lại để con người bình thường cũng có thể tiếp cận với tri thức.
Nếu trước đây, tiếng La-tinh là ngôn ngữ học thuật của giới học giả, tu viện và đại học, thì kể từ thế kỷ Khai sáng, tiếng La-tinh dần trở thành một ngôn ngữ chết, phức tạp và phiền toái so với ngôn ngữ địa phương, vốn dĩ đã trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng mà người bình thường cũng có thể dùng để tiếp cận những tác phẩm nổi danh nhất.
Với ngôn ngữ địa phương trong văn học, sự tiệm cận giữa giới học giả với người bình thường xảy ra khắp nơi, và đó là điều kiện tiên quyết để văn học phát huy tác dụng trong thời đại Khai sáng: Lĩnh vực khoa học được nâng lên tầm cao của văn học để mọi người bình thường có thể tiếp cận được.
Những quan tâm thường nhật trong xã hội được phản ánh phong phú trong nhạc, kịch, văn thơ, nghệ thuật trào phúng, tất nhiên là bằng tiếng địa phương.
Thi bá người Ý, Dante Alighieri vào đầu thế kỷ 14 có một sáng kiến vĩ đại là dùng tiếng mẹ đẻ trong thơ phú khi sáng tác tuyệt phẩm Thần Khúc. Sau đó, sáng kiến mới lạ này dần dần được các nước khác đón nhận nồng nhiệt và đã trở thành hình thái văn học đại chúng trong thời đại Khai sáng ở châu Âu.
Tuy có một số điểm tương đồng, nhưng sự khác nhau căn bản giữa trào lưu Khai sáng thế kỷ 18 và phong trào Phục hưng, cũng như với các trào lưu khác trong lịch sử trước đó, là sự xuất hiện rất sâu rộng của những nỗ lực đòi hỏi cải cách.
Hay nói cách khác, đó là sự tham gia của đông đảo rất nhiều người, một mặt tự nhận mình là những người cải cách, vì họ có quyết tâm thúc đẩy sự cải thiện và đổi mới xã hội, mặt khác, họ tự nhận mình là những người Khai sáng, với tinh thần là đổi mới xã hội trước hết phải xuất phát từ sự chuyển hóa trong tư tưởng của chính bản thân con người.
Không chỉ là học giả, mà còn là nhà vận động
Các học giả không chỉ dừng lại ở những tư tưởng mang tính chất lý thuyết, mà họ còn có nhiều nỗ lực để biến lý thuyết thành những hành động thực tiễn có khả năng thu hút sự tham gia của công chúng. Họ cũng không dừng lại ở sự phê phán và trao đổi lẫn nhau giữa các học giả, mà còn đào luyện năng lực để có thể đưa ra những giải pháp cải cách xã hội.
Thành quả to lớn của họ là đã truyền được cảm hứng đến đại chúng, hướng tầm nhìn và ước vọng của công chúng đến những hình thái xã hội mới mẻ cùng các định chế chính trị hiện đại, vốn chưa hề tồn tại trước đó.
Nói tóm lại, trào lưu Khai sáng không phải là cuộc vận động chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, và cũng không chỉ giới hạn trong tầng lớp học giả có điều kiện vật chất và tinh thần, mà đó còn là một phong trào rộng lớn có khả năng tạo nên sự chuyển hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau, được lan tỏa ra nhiều tầng lớp khác nhau.
Xung lực ban đầu của trào lưu là sự dằn vặt nội tâm của giới học giả, về sự bất lực của chính mình trước sự suy đồi xã hội. Xung lực đó đã thúc đẩy sự sáng tạo ra những luồng tư tưởng mới, công trình nghiên cứu mới, sáng kiến mới của giới học giả đương thời, lớp người mà chúng ta gọi là “giới trí thức” theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay.
Nhưng khác hẳn với các trào lưu trong quá khứ, đòi hỏi về tinh thần của học giả thời đại Khai sáng đã thâm nhập vào nhiều lớp người trong xã hội, và tạo nên ý thức chính trị sống động để biến thành trào lưu cách mạng khi hoàn cảnh xã hội đã chín muồi.
Diễn biến không ngừng của thời đại Khai sáng
Trào lưu Khai sáng ở châu Âu phát triển rực rỡ nhất trong thời gian ở giữa các cuộc cách mạng dân chủ lớn trên thế giới: “Cách mạng Vinh quang” tại Anh năm 1688, Cách mạng Mỹ năm 1776 và Cách mạng Pháp năm 1789. Đó là một thế kỷ huy hoàng, một khung thời gian hội tụ những gương mặt đặc sắc của nền văn minh hiện đại châu Âu.
Các tác phẩm triết học và chính trị quan trọng nhất vẫn còn ghi lại dấu ấn cho đến tận ngày hôm nay đều được ra đời trong thế kỷ Khai sáng, hoặc trong khoảng một thời gian ngắn trước đó.
Những định chế chính trị của các nước hiện đại ngày nay (nền cộng hòa, dân chủ và pháp quyền) đều dựa vào hệ tư tưởng được phát sinh trong thời đại Khai sáng. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên mang tính đột phá và đặt nền tảng cho nền khoa học – kỹ thuật hiện đại cũng được khám phá trong khoảng thời gian này.
Vài thí dụ:
Hai khảo luận về chính quyền của John Locke, xuất bản lần đầu năm 1690 đã tạo cảm hứng cho việc soạn thảo nội dung hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp và từ đó lan ra nhiều nước dân chủ khác ngày nay trên thế giới;
Tinh thần luật pháp của Montesquieu năm 1748 là sách gối đầu kinh điển của nguyên tắc phân quyền áp dụng trong các nền dân chủ lớn hiện nay;
Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau xuất hiện năm 1762 như một hiệu lệnh cho cuộc Cách mạng Pháp xảy ra 27 năm sau đó;
Phồn vinh các quốc gia của Adam Smith năm 1776 là nền tảng của hệ thống kinh tế hiện đại, mang lại phồn vinh cho thế giới phương Tây;
Phê phán lý tính thuần túy của Immanuel Kant năm 1781 mở đầu cho nền triết học hiện đại,
Bách khoa toàn thư gồm mười bảy tập của Denis Diderot chủ biên với hơn 160 tác giả tiếng tăm đương thời v.v…
Ngoài ra, cũng cần ghi nhận một điểm uốn quan trọng trong lịch sử phát triển kỹ thuật ứng dụng, là nguyên lý hoạt động của máy hơi nước được khám phá bởi James Watt nhận được bằng sáng chế năm 1769, khởi đầu cho cơn bão cách mạng công nghiệp, chi phối hoạt động của mọi ngành sản xuất trong hai thế kỷ 18 và 19.
Và chắc hẳn, cũng không phải tình cờ mà những tài năng lớn nhất của nhân loại trong lĩnh vực âm nhạc cổ điển lại thành danh trong thế kỷ Khai sáng.
Trong thời đại đó, chúng ta có thể kể hàng loạt các nhạc sư có tài năng vượt không gian, vượt cả thời gian và còn giá trị cao cho đến hôm nay. Vài khuôn mặt tiêu biểu: Antonio Vivaldi (1678-1741), Johann Sebastian Bach (1685-1750), Joseph Haydn (1732-1809), Wolfgang Mozart (1756-1791), Ludwig van Beethoven (1770-1827), Franz Schubert (1797-1828) v.v…
Trào lưu Khai sáng tất nhiên không dừng lại ở cuối thế kỷ 18, mà còn tồn tại và phát triển trong những thế kỷ tiếp theo, không những cho riêng châu Âu mà dần dần lan tỏa ra các lục địa khác. Tuy nhiên, trào lưu Khai sáng kể từ thế kỷ 19 đã mang nội dung mới.
Diện mạo châu Âu trong thế kỷ 19 và 20 đã đổi khác, cấu trúc xã hội đã thay đổi sâu sắc; khoa học và kỹ thuật đã phát triển lên một mức độ cao hơn; cuộc cách mạng công nghiệp không những đã xuất hiện mà còn phát triển vũ bão đến mức độ khó lường mà con người chưa bao giờ chứng kiến trước đó.
Các tư tưởng tiên phong và tiến bộ được sản sinh trong thế kỷ 18 đã trở thành hiện thực, và từng bước được hoàn thiện trong thế kỷ tiếp theo trên khắp mọi miền ở lục địa châu Âu; các tính chất cần thiết của một con người Khai sáng đã trở thành giá trị tương đối phổ quát, được xã hội và học đường thừa nhận và bảo vệ.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, tư tưởng Khai sáng kể từ thế kỷ 19 về sau tất nhiên mang một sắc thái mới, có một nội dung mới nhằm lý giải các hiện tượng trong xã hội đương thời, đồng thời đưa ra những tiền đề mới để đón đầu giải quyết các vấn nạn có thể xảy ra.
Nói cách khác, ngưỡng cửa 1800 có thể xem là thời điểm kết thúc của trào lưu Khai sáng theo phong cách cũ, hay ít ra, có thể xem đó là một giả thuyết có cơ sở để làm mốc lịch sử cho việc khảo cứu tiếp theo. (Còn tiếp)
Tôn Thất Thông
Ảnh 1: Aufklarung - "Khi ánh mặt trời của trí tuệ và lòng dũng cảm đã tỏa sáng thì lớp sương mù đại diện cho sự u mê tăm tối kia cũng sẽ mau chóng tan biến". Ảnh 2: Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền trong cách mạng Pháp khẳng định quyền tự do tối thượng không thể xâm phạm của con người - Một thành quả của thời đại Khai sáng.

