Có…đại khái vậy.
Thí nghiệm Pavlov là một ví dụ của điều kiện hóa cổ điển và có tác dụng với mọi thực thể sống có não.
Về cơ bản là như này, bạn liên hệ các phản ứng hành vi với những sự kích thích không liên quan với nhau. Nhưng thực tế lại khác, với những sinh vật thông minh và phức tạp như con người, đó là điều khó có thể thực hiện.
Bạn cần một môi trường được kiểm soát kĩ để có thể tăng khả năng liên hệ thành công. Trong đa số tình huống thường gặp hàng ngày, sẽ có một vài sự kích thích đồng thời được hướng tới con người.
Trường hợp cô bạn gái cho crush kẹo mà bạn nhắc rốt cuộc sẽ thất bại, nếu không phải do anh chàng nhận ra rằng mình chỉ muốn kẹo từ cô gái thì sẽ là do việc dừng cho kẹo.
Cách tiếp cận hiệu quả hơn sẽ là điều kiện hóa từ kết quả, tức là anh chàng kia nhận được phản ứng tích cực từ hành động của mình. Ví dụ như anh ta ra chỗ bạn nói chuyện và bạn khiến anh ta cười, nó dược coi là gia cố, tức là một lý do tốt để anh ta tiếp tục nói chuyện với bạn.
Nhưng nếu bạn nghĩ thì mới thấy rằng phần lớn những sự tiếp xúc xã giao của chúng ta là hỗn hợp của hai loại điều kiện hóa. Ví dụ, nếu bạn thấy vui vẻ khi đi chơi cùng bạn bè, khả năng cao bạn sẽ đi chơi tiếp. Nếu bạn luôn uống bia vào những dịp này, khả năng bạn sẽ liên hệ việc uống bia với thời gian vui vẻ.
Một ví dụ khác: Nếu bạn thân với ai đó. Họ sẽ thường xuyên muốn ở gần bạn hơn. Theo thời gian, họ sẽ nhận ra rằng khi họ ở bên bạn, họ cảm thấy tốt, theo cách mà không ai khác có thể làm. Đó là lúc cảm giác yêu được liên hệ với người khác. Đó là lúc chúng tôi, những nhà tâm lý học (và mọi người khác), gọi là phải lòng.
