Vấn đề Nam Thái Bình Dương
Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, hơn 100.000 quân Đồng minh và 7.000 tàu chiến đã xông lên các bãi biển Normandy trong cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử. Đồng minh đang ở thế thắng.
Mặc dù Hội nghị Tehran đã quyết định rằng cuộc chiến ở châu Âu là tối quan trọng và hành động ở Thái Bình Dương sẽ bao gồm một chiến lược phòng thủ cho đến khi Hit* bị đánh bại, nhưng vẫn có một lực lượng đáng kể người, tàu và máy bay ở Mặt trận Thái Bình Dương. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để sử dụng lực lượng đó một cách hiệu quả và ai sẽ là người chỉ huy.
Có hai ứng cử viên, Tướng Douglas MacArthur và Đô đốc Chester Nimitz.
Các quan chức hải quân Mỹ, bao gồm Thủy sư Đô đốc William Leahy và Đô đốc Ernest King, lập luận một cách thuyết phục rằng phạm vi rộng lớn của Thái Bình Dương cho thấy cuộc chiến chủ yếu là của hải quân và nên được chỉ huy bởi một đô đốc hơn là một vị tướng.
MacArthur gây áp lực để nắm quyền chỉ huy
Tuy nhiên, MacArthur và những người ủng hộ ông đã gây áp lực buộc Tổng thống Roosevelt giao cho ông quyền chỉ huy toàn bộ Mặt trận Thái Bình Dương. MacArthur là một nhân vật gây tranh cãi – được yêu quý và cũng bị ghét bởi nhiều người, họ cho rằng ông là kẻ khoa trương, tự cao tự đại và viển vông. Tính cách cùng với thâm niên dày dặn của mình khiến ông ta khó chấp nhận làm cấp dưới của bất kỳ chỉ huy hải quân nào.
Ngoài ra, về mặt chính trị, đám người khá đông ủng hộ vị tướng này gây ra mối đe dọa tiềm tàng đối với các cuộc bầu cử trong tương lai; MacArthur thậm chí có thể nổi lên như một ứng cử viên tổng thống để thách thức chính Roosevelt.
Cuối cùng Roosevelt đã vượt qua ban tham mưu của mình và chia Thái Bình Dương thành hai mặt trận: MacArthur là Tư lệnh tối cao của Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, bao gồm Australia, quần đảo Solomon, New Guinea, Đông Ấn thuộc Hà Lan và Philippines. Phần còn lại của Thái Bình Dương được giao cho Nimitz với chức danh Tư lệnh Các khu vực Thái Bình Dương. Mỗi mặt trận được coi là một Bộ tư lệnh độc lập mà cả tướng MacArthur lẫn đô đốc Nimitz đều không ai dưới quyền ai.
Hai chiến lược khác biệt
Điều này có vẻ như là một thỏa hiệp tốt vào thời điểm đó, nhưng nó đã vi phạm nguyên tắc bất khả xâm phạm của chiến tranh – thống nhất chỉ huy. Cấp trên trực tiếp của Nimitz là Chỉ huy trưởng Tác chiến Hải quân, Đô đốc Ernest King, trong khi MacArthur ở dưới quyền Tham mưu trưởng Lục quân, Tướng George Marshall. Mặc dù King và Marshall ở một cấp độ nào đó, dưới quyền Đô đốc William Leahy, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, nhưng chính Roosevelt mới là người có tiếng nói cuối cùng về các vấn đề liên quan đến việc tiến hành chiến tranh. Vì vậy, người chỉ huy chung ở Thái Bình Dương thực chất là chính tổng thống.
Ban đầu, điều này không gây ra vấn đề gì lớn, nhưng nó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về sau vì MacArthur và Nimitz có hai chiến lược khác nhau để đánh bại Nhật Bản.
Nimitz và các Tham mưu trưởng chủ trương nhảy đảo qua trung tâm Thái Bình Dương, bỏ qua Philippines, và thiết lập một căn cứ xuất phát tấn công trên đảo Đài Loan. Tầm nhìn của họ rất rõ ràng: đảm bảo an toàn cho các quần đảo Marshalls và Solomon, qua đó bảo vệ các tuyến đường tiếp tế đến Úc và New Zealand, sau đó chiếm Marianas và Đài Loan. Một lợi thế của chiến lược này là khả năng sớm bảo đảm một căn cứ không quân trên đảo Đài Loan trong tầm hoạt động của máy bay để ném bom Nhật Bản.
Chiến lược của MacArthur là hành quân qua các khu rừng ven biển của New Guinea, qua Philippines đến miền nam Trung Quốc, và từ đó tiến hành một cuộc đổ bộ các đảo chính của Nhật Bản. Tất nhiên, việc chi nguồn lực cho chiến lược này có thể trì hoãn việc chiếm đóng Đài Loan và ném bom các đảo chính của Nhật Bản.
Tập trung vào Philippines
MacArthur có thành kiến mạnh mẽ và không ngừng tập trung vào Philippines. Ông là cố vấn quân sự cho chính phủ Philippines trong bốn năm bắt đầu từ năm 1937, và cha ông là toàn quyền vào năm 1900. Ông cũng là bạn thân của Tổng thống Manuel Quezon, người vào năm 1942 đã trao cho MacArthur 500.000 đô la về sự phục vụ của ông trước chiến tranh. Việc một sĩ quan quân đội đang tại ngũ nhận một khoản tiền tương đương với 7,5 triệu đô la ngày nay từ một chính phủ nước ngoài là điều chưa từng có tiền lệ.
Mặc dù món quà này đã được Roosevelt và Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson biết đến, nhưng mãi đến băm 1979, tức15 năm sau cái chết của MacArthur, điều đó mới được công khai.
Cuộc tranh luận về chiến lược vẫn chưa được giải quyết vào mùa hè năm 1944, khi Roosevelt đến Honolulu để gặp riêng MacArthur và Nimitz. Mục đích chính thức của cuộc họp là để giải quyết những khác biệt và quyết định hướng đi tiếp của các lực lượng Mỹ trên Mặt trận Thái Bình Dương. Tuy nhiên, một số người tin rằng động lực thực sự của ông là được chụp ảnh với các chỉ huy mặt trận của mình để các cử tri nhìn nhận ông với tư cách là tổng tư lệnh, ông chủ của đối thủ tiềm năng là MacArthur.
Đó là năm bầu cử, và chỉ một ngày trước khi Roosevelt lên tàu đến Honolulu, ông đã được đề cử cho nhiệm kỳ thứ tư chưa từng có. Đây là cơ hội để cho quốc gia thấy rằng ông có đủ sức khỏe để giữ chức tổng tư lệnh thêm bốn năm nữa (ông sẽ chết trong vòng chín tháng).
Xác định hướng đi của chiến tranh trong tương lai
Dù lý do chính của cuộc gặp là gì, Roosevelt đã chọn giải pháp dung hòa những khác biệt giữa hai chỉ huy dưới quyền và xác định diễn biến tương lai của cuộc chiến cũng như quyết định số phận hàng ngàn người Mỹ. Quyết định sẽ phụ thuộc vào việc: ai sẽ chứng minh là thuyết phục hơn – MacArthur hay Nimitz.
Vào ngày 26 tháng 7, Chiếc máy bay Boeing B-17 mang tên Bataan của MacArthur đã hạ cánh xuống sân bay Hickam một giờ trước khi tàu USS Baltimore chở Tổng thống cập cảng. Nhưng MacArthur đã không nhập đoàn cùng Nimitz và không tham dự lễ chào đón chính thức tại bến tàu. Thay vào đó, ông ấy đã đến cuộc họp bằng một chiếc limousine dài, mui trần với một đoàn mô tô hộ tống và chấp nhận sự chào đón của đám đông cổ vũ dọc theo tuyến đường.
Tại cuộc gặp được tổ chức tại dinh thự sang trọng ở Bãi biển Waikiki, Nimitz trình bày bài thuyết trình được chuẩn bị kỹ lưỡng của mình bằng cách sử dụng các biểu đồ và số liệu thống kê để chỉ ra lợi thế của Đài Loan như một căn cứ chính cho các cuộc hành quân cuối cùng chống lại Nhật Bản. Từ quan điểm chiến lược, một lực lượng duy nhất di chuyển qua Trung Thái Bình Dương về phía Nhật Bản là một ý tưởng hay.
Tuy nhiên, đó là một quyết định chính trị không thể chấp nhận được. Nếu Nimitz được Bộ Tư lệnh Tây Nam Thái Bình Dương trao tất cả các nguồn lực để có ưu thế áp đảo cho một cuộc tấn công xuyên Trung Thái Bình Dương, thì MacArthur sẽ bị xếp vào một vai trò nhỏ trong thời gian còn lại của cuộc chiến.
Thỏa thuận bí mật giữa MacArthur và Roosevelt?
MacArthur đã ở trạng thái tốt nhất vào buổi tối hôm đó. Ông ta không cầm theo tài liệu, không có bản đồ chuẩn bị của riêng mình, và tuyệt đối chắc chắn rằng ông đã đúng. Ông cho rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ đạo đức phải giải phóng 17 triệu người Philippines trước khi tấn công Nhật Bản.
Theo quan điểm của ông, việc bỏ qua phần lớn Philippines sẽ là thảm họa về mặt quân sự và chính trị, đồng thời làm cái cớ để Nhật tuyên truyền rằng Hoa Kỳ đã bỏ rơi người Philippines và sẽ không đổ máu để giải phóng họ hoặc bất kỳ người nào không phải là da trắng. Điều này sẽ làm cho Hoa Kỳ mất uy tín đối với tất cả các dân tộc ở Viễn Đông và sẽ ảnh hưởng xấu đến Hoa Kỳ trong nhiều năm. Ông chỉ ra: Khó mà tin người dân Trung Quốc ở Đài Loan sẽ hỗ trợ các lực lượng Mỹ, trên thực tế họ có thể công khai thù địch, trong khi người dân Philippines hoàn toàn trung thành với Hoa Kỳ.
MacArthur còn có một lý do khác để trở lại Philippines. Ông ta là chỉ huy của Lực lượng lục quân Hoa Kỳ ở Viễn Đông vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng, và mặc dù đã được thông báo ngay lập tức về cuộc tấn công và được lệnh của Marshall thực hiện các kế hoạch chiến tranh có sẵn, nhưng ông ta đã không làm gì cả.
Tám giờ rưỡi sau khi cuộc tấn công Trân Châu Cảng bắt đầu, Không đội 11 của Nhật Bản đã đạt được hoàn toàn bất ngờ về mặt chiến thuật và phá hủy 100 máy bay tại sân bay Clark của Manila – hầu như toàn bộ Lực lượng Không quân Viễn Đông. Hai tuần sau, MacArthur chuyển Tổng hành dinh của mình đến Đảo Corregidor ở Vịnh Manila, và vào tháng 3 năm 1942, ông ta chạy trốn đến Úc trên một chiếc PT Boat dài 24m theo lệnh của Roosevelt.
Cho dù là do lòng biết ơn đối với món quà 500.000 đô la hay do xấu hổ vì sự kém cỏi của mình ở Manila hay cảm giác tội lỗi vì đã bỏ rơi quân mình ở Corregidor, MacArthur đã đưa ra một lập luận thuyết phục về lý do giải phóng Philippines.
Đến nửa đêm, vẫn chưa có quyết định nào được đưa ra nhưng sáng hôm sau, Roosevelt và MacArthur gặp riêng. Một số nhà sử học tin rằng họ đã đạt được một thỏa thuận bí mật, theo đó MacArthur sẽ được phép tái chiếm Philippines nhưng phải đồng ý từ chối công khai ủng hộ Thống đốc New York Thomas Dewey, người có khả năng là đối thủ của Roosevelt trong cuộc bầu cử tổng thống mùa thu tới.
Roosevelt nhận thức rõ về lượng người khổng lồ ủng hộ MacArthur tại Hoa Kỳ. Ngay từ tháng 4 năm 1943, Thượng nghị sĩ bang Michigan, Arthur Vandenberg, cùng với một nhóm các đảng viên Cộng hòa bảo thủ nổi tiếng, bắt đầu tổ chức đợt vận động “MacArthur làm Tổng thống”.
Mặc dù các ứng cử viên hàng đầu của Đảng Cộng hòa cho vị trí tổng thống là Dewey và Wendell Willkie, MacArthur vẫn được nhắc đến nhiều. Trên thực tế, tên của ông đã được ghi trong cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống ở bang Wisconsin, nơi ông đứng thứ ba.
MacArthur được theo cách của ông ấy
Cuối ngày hôm đó, Roosevelt nhất quyết thực hiện một chuyến tham quan bằng ô tô đến các căn cứ quân sự ở Oahu. Nimitz sau này đã viết rằng trên đường đi, qua cuộc trò chuyện thân mật giữa tướng MacArthur và tổng thống, ông biết rằng ông tướng đã giành được tất cả các điểm mình yêu cầu …
Tuy nhiên, phải đến khi Roosevelt trở về thủ đô Washington, quyết định của ông mới được công khai. Ngay sau đó, các Tham mưu trưởng đã xác nhận cách tiếp cận “hai hướng” đối với Nhật Bản.
Quyết định này đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người Mỹ. Nếu Hoa Kỳ không lên kế hoạch giải phóng Philippines, quân đội Đồng minh đã có thể tránh được hàng ngàn thương vong ở New Guinea. Hơn nữa, quân Đồng minh sẽ tránh được cuộc chiến vô nghĩa giành Palau, đặc biệt là đảo Peleliu, nơi mà Nimitz tin rằng cần thiết để hỗ trợ cuộc đổ bộ của Philippines và bảo vệ sườn phải của MacArthur. Cuối cùng, quân Đồng minh ắt đã cứu được 10.380 người Mỹ thiệt mạng và 36.631 người bị thương trong quá trình giải phóng Philippines.
Trong khi các cuộc họp định mệnh diễn ra ở Honolulu thì cách đó 3.700 dặm về phía tây, quân Mỹ đang chiến đấu một trận chiến đẫm máu để chiếm Saipan thuộc quần đảo Mariana. Trên thực tế, trận này dẫn đến con số thương vong cao nhất cho đến nay ở Thái Bình Dương với 3.000 người Mỹ chết và 10.000 người bị thương. Người Nhật đã phải gánh chịu 30.000 người chết cùng với 22.000 thường dân, nhiều người trong số họ đã tự sát.
Thất bại thảm hại của họ đã cung cấp bằng chứng cho các nhà lãnh đạo Nhật Bản rằng chiến thắng quân sự là không thể đạt được. Chín ngày sau khi Saipan bị chiếm vào ngày 9 tháng 7 năm 1944, Thủ tướng Nhật Bản Hideki Tojo và toàn bộ nội các của ông từ chức.
Việc chiếm đóng các Mariana, bao gồm các đảo Guam, Saipan và Tinian, rất quan trọng vì nó có thể đẩy nhanh việc ném bom Nhật Bản. Nếu chiến lược Đài Loan được triển khai, hai loại máy bay ném bom với tầm bay 1.000 dặm từ Đài Loan đến Nhật Bản đã có sẵn: B-17 và B-24.
Vẫn còn một số bí ẩn
Tình hình sớm thay đổi khi Không quân của Lục quân chọn máy bay Boeing B-29 Superfortress có tốc độ 350 dặm một giờ, tải trọng bom gấp đôi của B-17, và tầm bay 3.500 hải lý, quá đủ để từ Marianas bay đến Nhật Bản và quay trở lại.
Vào thời điểm Tinian bị chiếm đóng vào ngày 1 tháng 8 năm 1944, những chiếc B-29 đã bay từ Ấn Độ và các căn cứ chuyển tiếp ở Trung Quốc trong vài tháng. … Ngay sau khi Tinian nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ, công binh hải quân đã bắt đầu một dự án xây dựng lớn tại North Field để sửa chữa và mở rộng đường băng đã có và xây dựng thêm ba đường băng dài hai dặm. Đây là một trong những dự án xây dựng lớn nhất trong Thế chiến thứ hai.
Đến đầu năm 1945, North Field đã trở thành sân bay lớn nhất và nhộn nhịp nhất trên thế giới, nơi có 1.000 chiếc B-29 cất cánh và hạ cánh mỗi phút để ném bom Nhật Bản.
Vào ngày 6 tháng 8, chiếc B-29 Enola Gay rời Tinian bay đến Hiroshima và thả quả bom nguyên tử đầu tiên. Ba ngày sau, chiếc B-29 mang tên Bock’s Car đã thả quả bom nguyên tử thứ hai. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng Hirohito tuyên bố trên đài phát thanh cho người dân của mình rằng Nhật Bản đã đầu hàng và chiến tranh đã kết thúc.
Hoa Kỳ đã không bao giờ sử dụng Philippines để ném bom Nhật Bản hoặc tiến hành một cuộc đổ bộ lên các đảo chính quốc của Nhật, và người ta nghi ngờ việc giải phóng Philippines có giúp gì cho việc kết thúc chiến tranh không.
Chiến tranh Thái Bình Dương đã được đưa tin rộng rãi trên báo chí, trong các bức ảnh và trong các mẩu tin tức, nhưng một số bí ẩn vẫn còn.
Tại sao MacArthur phớt lờ những lời cảnh báo về một cuộc tấn công của quân Nhật vào Manila vào ngày 7 tháng 12 năm 1941? Tại sao ông ta lại có ý định giải phóng Philippines?
Tại sao Roosevelt lại đồng ý với chiến lược của MacArthur, chống lại lời khuyên của bộ tham mưu và cố vấn quân sự của ông ta?
Tại sao Nhật Bản vẫn tiếp tục chiến đấu sau khi hải quân của họ bị tiêu diệt, nguồn dầu mỏ bị cắt, và bằng bất kỳ phân tích khách quan nào, rõ ràng rằng Nhật Bản không thể nào thắng được?
Nguồn:
FDR’s Dilemma: Did Politics Trump Strategy?
Robert A. Rosenthal

