Có ai đã từng nghe đến thành phố này chưa?! Dường như không một ai nhớ về nó và một điều khủng khiếp gì đó đang xảy ra với nó.
Rõ ràng đã từng có một thành phố ở phía bắc Thụy Điển tên Korona nhưng bằng một cách nào đó, tất cả chúng ta đều đã quên mất nó. Tôi là một cảnh sát làm việc tại Kalix, một đô thị được cho là gần với thành phố Korona đã biến mất. Ở vị trí đó hiện giờ không hề có dấu hiệu của một thành phố – chỉ có một khu rừng rậm rạp – nhưng có một chi tiết liên quan đến gia đình tôi khiến tôi chắc chắn rằng nơi này thật sự có thật.
Cả thế giới đã quên mất nơi đó…
Tôi không thể tưởng tượng được bằng cách nào hay tại sao nhưng đó là kết luận duy nhất mà tôi có thể đúc kết được.
Mọi chuyện bắt đầu khi hai người hái việt quất người Romania bước vào văn phòng nhỏ của tôi để báo cáo về một thứ mà họ tìm thấy sâu trong khu rừng rậm rạp đó. Vốn tiếng Anh hay tiếng Thụy Điển của họ đều không đủ để giải thích chính xác thứ họ tìm thấy nhưng tôi có thể nhận ra ngay rằng thứ đó đã hoàn toàn khiến họ kinh hãi. Theo những gì tôi hiểu thì dường như thứ đó liên quan đến một xác người. Cuối cùng thì sau khi đưa một thông dịch viên đến từ thị trấn bên cạnh đến, người ta bảo rằng họ đã tình cờ bắt gặp xác chết của một đứa trẻ không quá 10 tuổi.
Họ dẫn theo tôi cùng hai đồng nghiệp và xe cấp cứu đến địa điểm mà họ tìm thấy đứa trẻ. Khi chúng tôi đến được đó, mặt trời đã lặn sau màn sương mù dày đặc. Tôi đốt một điếu thuốc trong khi chúng tôi rời khỏi đường chính và đi bộ vào rừng để đến nơi mà họ nhìn thấy xác chết. Tôi cảm thấy hơi khó chịu khi phải đối mặt với thi thể của một đứa trẻ nhưng tôi đã từng xử lí vài trường hợp như thế này trước đây trong một số vụ tai nạn ô tô nên bây giờ nó cũng không quá ảnh hưởng cho lắm. Đó chỉ là một vụ án khác thôi hoặc chí ít là tôi đã nghĩ như vậy.
Hai người Romania dừng lại khi chúng tôi đến gần và cũng từ chối tiến xa hơn. Trong mắt họ hiện lên sự hoảng sợ khủng khiếp nhiều hơn là tôi nghĩ trong hoàn cảnh khắc nghiệt này. Một trong những người đồng nghiệp của chúng tôi ở lại với họ trong khi số khác thì vẫn tiếp tục tìm kiếm. Chúng tôi nhanh chóng tìm thấy một phiến đá khổng lồ nằm trên một tảng băng đã từng bao phủ cả châu Âu trong kỉ băng hà. Đồng nghiệp của tôi đi kiểm tra một vòng xung quanh nó và một lúc sau, anh ấy chạy lại với vẻ mặt tái mét như vừa nhìn thấy quỷ. Anh ta cúi đầu xuống và ú ớ trước mặt tôi.
“Nó…” Anh ấy nói. “Nó ở phía bên kia…chết tiệt.”
Tôi không hỏi anh ấy thêm bất kì câu nào. Tôi tự mình đi qua kiểm tra nó cùng với vài người pháp y theo sau. Những gì chúng tôi tìm thấy phía bên kia tảng đá…không thể tự nhiên mà có được.
Một nửa đứa trẻ – một cô bé với mái tóc vàng – đã hợp nhất với phiến đá như thể cô bé đã đi qua nó như một bóng ma rồi đột nhiên biến thành người và một nửa cơ thể bị kẹt lại ở đó vậy. Hoặc như đồng nghiệp của tôi nhận xét, cứ như thể cô bé bị dịch chuyển vào trong phiến đá.
Cô bé có vẻ mặt buồn bã và ánh mắt chết chóc nhìn thẳng vào khu rừng giống như đang kể một câu chuyện bi thương mà người sống không thể hiểu. Các nhân viên pháp y nhanh chóng né tránh ánh mắt của cô bé trong im lặng và hoàn toàn kinh hãi trước những gì cô bé đã phải chịu đựng. Nhưng tôi thì không thể dời mắt mình sang chỗ khác được. Tôi chưa bao giờ là một kẻ sùng đạo nhưng gì tôi đang chứng kiến trước mắt đây thật khiến tôi nghi ngờ thế giới quan của mình.
Không chỉ nói đến việc cái cách mà cô bé tội nghiệp đã mất mạng với một nửa cơ thể bị nhấn chìm vào trong tảng đá…còn có thứ gì đó kì lạ lắm. Có điều gì đó khiến tôi cảm thấy thật sự trống rỗng. Giống như thể một mảnh linh hồn của tôi bị xé toạc rồi để lại một lỗ hở và các nỗi đau thương mà tôi chưa từng cảm thấy trước đây cứ thi nhau lắp đầy khe hở ấy. Đó là một cảm giác khủng khiếp và tồi tệ hơn bao giờ hết khi tôi nhìn vào cô bé đó. Tôi không thể cảm nhận được nó là gì…Khuôn mặt của cô bé giống như đã từng tồn tại trong phần kí ức mơ hồ nào đó đã bị lãng quên trong tôi.
Trong khi các bác sĩ tiếp cận thi thể thì chúng tôi thu mình lại và bắt đầu nói chuyện, cố gắng tìm hiểu những thứ trước mặt. Tôi cố gắng tập trung vào sự thật khốc liệt trước mắt trong lúc điều tra hiện trường. Cô bé mặc một chiếc ác khoác màu hồng. Ở một bên túi, chúng tôi tìm được một bông hoa khá kì lạ có màu sắc giống như một chú bọ cánh cứng và một thẻ thư viện có màu vàng khiến chúng tôi khá bối rối.
“Thư viện của Korona.”
Cô bé cũng đã viết tên mình lên trên tấm thẻ. Khi tôi nhìn thấy nó, thế giới của tôi bắt đầu trở nên rối loạn. “Isabella Lexelius” – dòng chữ được viết bằng nét chữ trẻ con.
“Thưa sếp, đó không phải là họ của của sếp sao?” Đồng nghiệp của tôi hỏi.
“Nó…nó là…” Tôi không biết nên nói hay nghĩ gì nữa.
“Chà, sếp có biết cô bé đó không?”
“Tôi…tôi không biết. Không…không, tôi chưa từng gặp cô bé này trong suốt cuộc đời mình trước đây. Đây hẳn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó.”
“Thật sự là một sự trùng hợp khá lớn đấy, thưa sếp.”
Tôi không trả lời lại.
“Có thứ gì đó trên mặt đất.” Một bác sĩ ở đó kêu lên.
Trên đám rêu dính máu của cô bé có một cuốn sổ. Nó hẳn đã rơi ra từ tay cô bé đang lơ lửng phía trên cuốn sách. Tôi nhặt lên và mở nó ra. Các trang giấy được bao phủ bởi chi chít các chữ và chúng đều được viết với một nét chữ khác hẳn với nét chữ của cô bé.
“Thưa sếp!” Một trong những nhân viên pháp y ở đó nói. “Chúng tôi cần mang thêm một số dụng cụ đến để có thể cưa cô bé ra.”
“Ừ.” Tôi nói một cách lơ đễnh.
“Thêm một chuyện nữa.” Bác sĩ nói. Tôi đặt cuốn sách vào một túi zip để làm vật chứng.
“Chuyện gì?”
“Có quá nhiều máu ở đây.” Nhân viên pháp y chỉ tay xuống đất.
“Ý cậu là có quá nhiều máu?” Tôi hỏi lại.
“Ở ngay phía dưới tảng đá, thưa sếp.” Cậu ấy giải thích. “Một đứa trẻ không thể có nhiều máu đến như vậy được.”
Tôi im lặng một lúc rồi nói.
“Chúng ta sẽ quay lại đây với những thiết bị tốt hơn.”
Một ngày sau, chúng tôi đã tách thành công phần thân trên của cô bé và đưa về nhà xác để khám nghiệm. Chúng tôi cũng đã thử cố gắng nâng tảng đá lên với sự giúp sức của cần cẩu nhưng nó vẫn không mảy may nhúc nhích. Thay vào đó, chúng tôi đã đào một cái hố ngay phía dưới tảng đá nhưng cũng không tìm thấy thêm bộ phận cơ thể nào khác. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm trong ngày hôm đó là cố gắng thu thập càng nhiều mẫu máu càng tốt.
Trong quá trình họ khám nghiệm tử thi, tôi đọc cuốn sổ. Trong cuốn sổ chứa đựng toàn bộ cầu chuyện về thành phố Korona. Tôi đã tin rằng đó chỉ là một câu chuyện hư cấu, một câu chuyện tưởng tượng được viết bởi người đàn ông đã giết cô bé. Cho đến vài tuần trước, bên phòng pháp y đã gọi điện đến cho tôi.
Tôi đã không thể tin vào điều đó nhưng họ nói không còn cách nào khác cả. Bên pháp y đã so sánh DNA của tôi và cô bé vì chúng tôi có cùng họ với nhau. Thật ra thì đó là ý tưởng của tôi vì tôi không muốn ai nghi ngờ, dị nghị gì cả. Chúng tôi đã nghĩ nó cũng chẳng giúp ích gì cho lắm cho đến khi họ phát hiện ra…
Cô bé Isablla 10 tuổi…là con gái của tôi.
Tôi chắc chắn rằng chuyện này là không thể. 10 năm trước, tôi vẫn còn sống chung với vợ cũ, tôi chưa bao giờ lừa dối và chắc chắn là cũng không chưa bao giờ có con với cô ấy. Chúng tôi đã sống với nhau thêm 5 năm nữa nên nếu cô ấy có con thì chắc chắn tôi sẽ biết. Tuy nhiên, những gì trong giấy xét nghiệm thì không thể sai được.
Dưới đây là nội dung bên trong cuốn sổ. Tôi đã gõ nó lên đây với hi vọng rằng sẽ có ai đó nhớ đến thành phố hoặc ai đó đã từng sống ở đó. Vui lòng liên hệ với tôi nếu bạn biết thêm thông tin.
Đây là nội dung bên trong:
Tên tôi là Helena Fredriksson. 5 năm trước, tôi là một người hoàn toàn khác. Hồi đó thì tôi còn trẻ hơn, không chỉ theo nghĩ thông thường mà còn là cả về tinh thần nữa. Tôi đã tận hưởng một cuộc sống tràn ngập niềm vui, hi vọng và cả ước mơ. Giờ thì đó đều là những thứ đã qua…Tôi không có nhiều thời gian để viết lại chi tiết toàn bộ mọi thứ nhưng tôi sẽ cố gắng giải thích những gì xảy ra với chúng tôi, những gì xảy ra với toàn bộ cộng đồng của chúng tôi rõ ràng nhất có thể.
Chuyện xảy ra vào ngày 9 tháng 7 năm 2013. Tôi chỉ ghé đến thành phố Korono trong ngày để đưa cháu gái tôi – Isabella – đến buổi khai trương của công viên giải trí mới có tên The Red Grove. Đây được cho là công viên giải trí lớn nhất ở Thụy Điển và Isabella đã cầu xin bố mẹ con bé để đến buổi khai trương nhưng cả hai đều không thể do bận việc. Vì vậy, họ đã gọi và nhờ tôi đi cùng với con bé. Tôi luôn là người mà họ sẽ gọi mỗi khi họ cần giúp đỡ với Isabella và cũng là người duy nhất mà họ đủ tin tưởng để đặt lòng tin. Tôi ước mọi chuyện chưa từng xảy ra.
Chúng tôi đến đó khá sớm, sớm hơn tầm một vài giờ trước khi họ mở cửa. Vì vậy, chúng tôi sẽ không phải mất cả ngày trời chỉ để xếp hàng vào cổng. Thời tiết ngày hôm đó thật tuyệt vời. Vào sáng sớm thì trời hơi mưa lâm râm nhưng khi chúng tôi đến thành phố thì chẳng có một đám mây nào trong tầm mắt cả.
Isabella không thể ngừng ríu rít mọi thứ sẽ vui như thế nào và tôi cũng cảm thấy ấm lòng khi nhìn con bé hạnh phúc như vậy. Chúng tôi đã mất nhiều thời gian hơn dự kiến để đến đó vì một trong những con đường chính bị đóng cửa cho một cuộc diễu hành quân sự. Điều này cũng không làm chúng tôi bận tâm lắm, còn tăng thêm chút ăn mừng trong không khí. Để tránh cuộc diễu hành, chúng tôi phải bắt xe buýt đến trung tâm thành phố – quãng trường Freyja và từ đó phải đi tàu điện ngầm đến khu kinh tế Yellow Neutral – những toà nhà chọc trời cao nhất ở Thụy Điển. Chúng tôi có thể đi bộ đến The Red Grove từ đó.
Người ở khắp mọi nơi. Hoá ra, rất nhiều người trong số họ đã chọn cách đi phà qua sông mà tôi chẳng hề hay biết và điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ phải xếp hàng. Isabella không bận tâm gì đến điều đó cho lắm nhưng tôi biết con bé sẽ sớm đói và tôi lo rằng điều đó sẽ làm hỏng tâm trạng của con bé. May mắn thay, có một người đàn ông đang đẩy xe bán xúc xích đi xung quanh. Tôi đã mua một cây xúc xích và một lon nước ngọt cho Isabella. Bố mẹ con bé không thích việc tôi hay mua đồ ăn vặt cho nó nhưng trong một ngày như thế này thì tôi nghĩ là họ sẽ hiểu. Người đàn ông ấy cũng bán những quả bóng bay và Isabella đã vòi tôi mua cho một cái. Tôi đã cố gắng nói với con bé rằng con bé phải mang nó đi khắp nơi và sẽ có nhiều bóng bay hơn trong công viên nhưng con bé không nghe. Bất đắc dĩ, tôi cũng phải mua cho con bé một quả bóng bay.
Tại thời điểm này, không ai biết rằng toàn bộ cuộc sống của họ sắp phải thay đổi chỉ trong vài phút.
Isabella vô tình thả mất quả bóng bay. Tôi sợ điều đó sẽ làm con bé buồn nhưng con bé cũng chẳng bận tâm lắm. Chúng tôi nhìn theo quả bóng bay cho đến khi nó bay lên không trung và trôi đi. Chẳng mấy chốc, nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên bầu trời xanh bao la. Đột nhiên, nó biến mất.
“Nó vừa đi đâu thế ạ?” Isabella hỏi.
Tôi cũng không thể giải thích được. Chỉ là nó vừa…biến mất thôi.
“Dì cũng không biết. Có khi là nó nổ mất chăng?”
Nhưng có thứ gì đó, một thứ cảm giác khó chịu mà tôi không thể lí giải thành lời khiến tôi nghi ngờ về nó. Sau đó chỉ vài phút, vô số làn gió từ tứ phương tám hương thổi mạnh đến. Nó mang theo một mùi hương làm tôi gợi nhớ đến thứ gì đó bị thối rửa.
“Eww.” Isabella nói trong khi mái tóc dài óng ả của con bé đang tung bay trong gió. “Mùi gì thế ạ?”
Tôi siết chặt tay con bé hơn.
“Dì không biết nữa.” Tôi nói.
Mọi người xung quanh đều bối rối. Giọng nói vui mừng của họ dần trở nên lo lắng hơn. Có điều gì đó đang xảy ra nhưng không ai trong chúng tôi biết cả. Tiếng còi vọng đến từ phía xa nghe như phát ra từ khu kinh tế.
“Ôi chúa ơi!” Một người phụ nữ thốt lên và chỉ tay về phía những toà nhà. “Phần trên cùng của toà nhà kia đã biến mất rồi.”
Không phải dễ dàng để nhìn thấy nhưng cô ấy đã đúng. Đỉnh của toà nhà cao nhất đã biến mất như thể một con dao đã cắt ngang qua nó. Isabella quá thấp để có thể nhìn thấy nó nhưng con bé nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trên mặt mọi người và chính bản thân của con bé cũng bắt đầu hoảng sợ.
“Dì nghĩ chúng ta cần phải thoát khỏi đây.” Tôi nói và hoàn toàn hành động theo bản năng. “Dì không nghĩ là nơi này an toàn.”
Mắt Isabella rưng rưng.
“Nhưng còn buổi khai trương, không phải chúng ta…”
“Chúng ta sẽ quay lại đây sau, cháu yêu.” Tôi khi cùng con bé bước ra khỏi đám đông.
Một trong những chiếc phà sắp rời bến và chúng tôi đã nhanh chóng bước. Một vài người khác cũng bước lên với chúng tôi nhưng đa phần mọi người đều ở lại với hi vọng mọi chuyện sẽ được giải quyết. Isabella đã khóc nhưng con bé không giận. Khi chiếc phà từ từ rời khỏi bến ven sông thì một cuộc hỗn loạn đã nổ giữa đám đông trên đất liền. Tôi không thể nhìn được chuyện gì đang xảy ra nhưng đột nhiên mọi người hét lên và cố gắng nhảy xuống nước. Tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy khung cảnh tất cả mọi người dẫm đạp lên nhau trong lúc họ cố nhảy xuống sông và bơi khỏi đó. Đó là một cảnh tượng thật sự kinh khủng và tôi mừng vì Isabella không đủ cao để chứng kiến điều này.
Ngay khoảnh khắc tiếp theo, còi báo động từ hệ thống cảnh báo khẩn cấp bắt đầu phát ra những âm thanh kì quái báo hiệu cho một thảm hoạ sắp xảy ra. Mọi người đều đặt câu hỏi nhưng không một ai trả lời. Hầu hết câu trả lời mà tôi nghe được đều là về chúng tôi đang bị khủng bị tấn công bởi những kẻ khủng bố, người Nga hay vài thứ đại loại thế.
Tôi nhấc máy và gọi cho chị gái nhưng không có tín hiệu. Tôi cũng đã thử với điện thoại của Isabelle nhưng có lẽ là chúng tôi gặp xui xẻo rồi. Không có bất kì một ai ở đây bắt được sóng điện thoại cả. Ở hai bên mạn sông chảy dọc thành phố, mọi người đều đang cố gắng nhìn ra cửa sổ để xem chuyện gì đang xảy ra nhưng tất cả những gì họ có thể nhìn thấy được là những toà nhà bị cắt xén ở Yellow Neutral.
“Nhìn kìa.” Isabella nói và chỉ tay về phía bầu trời. “Cháu chưa bao giờ nhìn thấy con chim nào lớn như thế cả!”
Một sinh vật khổng lồ có hình dạng như một con chim bay trên đầu chúng tôi. Nó tối đen như mực. Mặc dù không chắc chắn lắm nhưng hình như nó cũng bối rối khi nhìn thấy chúng tôi. Nó bay vòng quanh trung tâm thành phố vài vòng rồi lại bay đi. Cảnh tượng con chim khổng lồ hay thứ gì đó đã thật sự biến sự bối rối của chúng tôi thành nỗi kinh hoàng. Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nhưng cũng phần nào xác định được nó không liên quan đến khủng bố hay một thế lực ngoại xâm nào cả. Đó là một cái gì đó rất khác…Một thứ gì đó không thể tin cũng không thể phủ nhận được.
Chiếc phà thả chúng tôi lên bờ, một nơi gần với quảng trường Freyja hơn. Mọi người gần như đều rơi vào trạng thái hoảng loạn mặc dù không ai trong chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Một số người đang thu xếp xe hơi để trốn khỏi thành phố trong khi một số người khác thì đang cố chạy đến một nơi nào đó – có lẽ là đến chỗ người thân của họ nhưng hầu hết mọi người đều tụ tập xung quanh các sĩ quan cảnh sát và quân nhân từ cuộc diễu hành để tìm kiếm thông tin. Tất cả những gì họ nhận được là những tiếng thét vào mặt và câu nói lặp đi lặp lại: Không biết, cần phải trở về nhà và nghe đài để biết thêm thông tin.
“Làm thế nào mà chúng ta có thể nghe đài radio trong khi mất điện cơ chứ?” Giọng nói phát ra từ một bà lão. “Nhìn xung quanh xem, không có nguồn năng lượng nào sử dụng được cả.”
Bà ấy nói đúng.
“Hãy về nhà, đóng cửa và chờ điện hoạt động trở lại. Chúng tôi không biết chuyện gì đang xảy ra đó điều an toàn nhất cần phải làm theo quy trình…” Một người cảnh sát nói.
Lời anh ấy bị cắt ngang bởi một trận náo động cách đó vài mét. Người đầu tiên cố trốn khỏi thành phố – một người đàn ông đi xe máy ồn ào đã quay trở lại. Tôi đang chở Isabella đồng thời an ủi con bé và lắng nghe những gì người đàn ông đó đang cố gắng nói với mọu người. Anh ta bước đến trung tâm của quảng trường và leo lên chân tượng Freyja. Ít người tin anh ấy nhưng tất cả những người đã chứng kiến sinh vật kì lạ trên bầu trời đều tin điều anh ấy nói là thật. Mặc dù những gì anh ấy nói đều hết sức viễn vông.
“Không có lối thoát!” Người đàn ông hét lên.
“Con đường chính bị cắt ở ngay rìa thành phố và…chỉ có rừng rậm. Tôi không thể giải thích nó được. Tôi xin lỗi nhưng đó là sự thật. Chúng ta bị bao quanh bởi một khu rừng rậm rạp và xung quanh đều không có lối đi.”
“Vậy thì đó là sự thật.” Một người cảnh sát đang tự thì thầm với chính mình bên cạnh tôi. “Lạy chúa, tất cả những điều này là thật.”
Tôi hỏi ý anh ấy là gì. Ban đầu, anh ấy không muốn trả lời câu hỏi của chúng tôi nhưng khi anh ấy nhìn thấy nước mắt và sự bối rối trong đôi mắt của Isabella, anh ấy quay sang tôi và nói khẽ.
“Trước khi chúng tôi mất liên lạc với phi công điều khiển chiếc trực thăng giám sát cuộc diễu hành, anh ta đã nói rằng không có có chuyện đó được. Anh ấy…anh ấy đã bị rơi. Có thứ gì đó cắt đứt cánh quạt của chiếc trực thăng và anh ấy nói rằng tất cả mọi thứ đã thay đổi. Trước khi chạm đất, anh ấy đã hét lên rằng anh ấy đã nhìn thấy một khu rừng rậm ở phía Tây và một đại dương ở phía Đông.”
Ngày càng có những báo cáo được đưa ra và chúng cũng không hoàn toàn là sự thật hết nhưng nhìn chung thì chúng đều có chung một nội dung: toàn bộ thế giới xung quanh thành phố đã bị thay đổi. Thành phố vẫn vậy nhưng bầu trời phía trên thì không. Cuối cùng thì những tiếng còi hú cũng im bặt, những chiếc xe cũng ngừng bấm còi và những âm thanh hỗn loạn cũng tắt lịm. Một sự im lặng kì lạ bao trùm lên cả thành phố. Tôi không biết phải giải thích cảm giác này như thế nào.
Tôi không biết những chuyện này có nghĩa là gì. Tôi đã cố gắng giải thích điều đó cho Isabella nhưng con bé chỉ mới 5 tuổi và vẫn không thể hiểu được. Con bé chỉ muốn về nhà với bố mẹ và tôi không biết phải nói gì với con bé bây giờ nữa. Cô bé mệt và cần được nghỉ ngơi, vì vậy tôi đã đến một nhà trọ gần đó và trả tiền phòng. Chẳng bao lâu, nền kinh tế trong thành phố này sẽ sụp đổ nhưng ở những ngày đầu tiên thì mọi người vẫn chấp nhận thanh toán bằng tiền.
Những gì xảy ra tiếp theo là 5 năm đầy thử thách và gian khổ. Đây là một cuộc chiến gian khổ mà không có tia hi vọng giúp đỡ hay được giải cứu. Nó bắt đầu ngay trong đêm đầu tiên. Mặt trời vẫn là mặt trời nhưng thay vì lặn ở phía tây thì nó lại đi lặn ở phía bắc và những ngôi sao kì lạ cũng phủ kín cả bầu trời. Khi ngắm nhìn chúng từ cửa sổ của căn phòng trọ, tôi không hề thấy sợ hãi mà trong tôi chỉ tràn ngập một cảm giác lạc lõng khó nói thành lời. Cảm giác kì lạ nhất trong những năm qua chắc có lẽ là cảm giác đối nghịch giữa sự quen thuộc khi bước đi trên đường phố và nỗi lạ lẫm đối với sự dịch chuyển hoàn toàn một thành phố như thế này. Tôi nghĩ đây cũng là một phần lí do tại sao mọi người vẫn tập trung đông đúc nhất ở gần trung tâm thành phố để đắm chìm trong cái ảo tượng được trở về mặc dù họ đều biết đó là một ước mơ vô cùng viễn vông.
Khi tôi nghiêng người ra cửa sổ, tôi nghe thấy những thanh âm hỗn loạn. Tiếng người la hét, tiếng súng nổ, tiếng ô tô chạy điên cuồng khi không có nơi nào để đi và thỉnh thoảng có vài tiếng hú lạ lùng khiến tôi lạnh hết cả người. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chuyện gì đã xảy ra vào đêm hôm đó nhưng chính nó đã thay đổi cuộc sống của hơn 2 triệu người ở đó mãi mãi.
[ Còn tiếp… ]
Tobias Malm.