Thứ hai, ngày 18/08/2025 16:31 GMT+7
Nguyệt Tạ Thứ hai, ngày 18/08/2025 16:31 GMT+7
Bên cạnh những thuận lợi trong công tác thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, vẫn còn tình trạng người lao động trục lợi chính sách, gây thiệt hại cho quỹ BHTN.
PV Dân Việt đã có cuộc phỏng vấn ông Lê Ngọc Hảo – Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Thanh Hóa về vấn đề thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Thưa ông, ông có thể thông tin về kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp (4 chế độ) tại Trung tâm thời gian qua?
– Tính đến ngày 31/7/2025, Trung tâm đã tiếp nhận 11.160 người lao động (NLĐ) đến nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp và ra Quyết định cho 10.792 người.
Về thuận lợi, công tác thực hiện chính sách BHTN luôn có sự quan tâm của các cấp cơ quan lãnh đạo từ trung ương tới địa phương. Sự đoàn kết thống nhất của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, hợp đồng lao động trong toàn đơn vị, cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Đội ngũ cán bộ, viên chức, NLĐ thực hiện chính sách BHTN không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. NLĐ thất nghiệp có ý thức tích cực tìm kiếm việc làm để nhanh chóng quay lại thị trường lao động.
Về khó khăn: Đa phần trình độ của NLĐ đến nộp hồ sơ hưởng chế độ BHTN thấp nên cán bộ thực hiện chính sách cần rất nhiều thời gian để thực hiện công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, học nghề, cung cấp thông tin thị trường lao động cũng như chính sách pháp luật về BHTN cho NLĐ đến nộp hồ sơ BHTN.
Ngoài ra, vẫn xảy ra sự chậm trễ, khó khăn khi kiểm tra quá trình tham gia Bảo hiểm xã hội, BHTN của người lao động do vẫn chưa xây dựng được hệ thống phần mềm để kết nối dữ liệu về BHTN giữa Trung tâm DVVL và BHXH tỉnh.

Việc nộp hồ sơ qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia gặp nhiều khó khăn do trình độ người lao động còn thấp, lỗi hệ thống và chưa kết nối được với Bảo hiểm xã hội. Trong thời gian qua, phần mềm BHTN không hoạt động, bị mất dữ liệu, gây khó khăn trong công tác xử lý hồ sơ và tổng hợp báo cáo, lưu trữ dữ liệu.
Đặc biệt, trung tâm vẫn ghi nhận nhiều NLĐ hưởng trợ cấp thất nghiệp không trung thực, cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, có hành vi trục lợi BHTN.
Bên cạnh hoạt động chi trả TCTN, việc tư vấn giới thiệu việc làm cho lao động thất nghiệp được thực hiện ra sao, thưa ông?
– NLĐ đến nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN), Trung tâm luôn quan tâm đến công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, để NLĐ sớm quay lại thị trường lao động. Trung tâm đã tích cực kết nối cung cầu giữa NLĐ và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng như trên cả nước. Ngoài hình thức tư vấn trực tiếp khi NLĐ đến Trung tâm thì đơn vị còn tổ chức các sàn giao dịch việc làm, tư vấn online và các buổi định hướng nghề nghiệp.
Hiện nay, báo cáo cho thấy tỷ lệ lao động thất nghiệp đang nhận TCTN đi học nghề còn quá thấp, thực trạng này tại trung tâm như thế nào? Lý do vì sao lao động không thích học nghề?
Hiện nay, tỷ lệ NLĐ đang nhận TCTN đi học nghề còn thấp, mặc dù Trung tâm đã thực hiện tư vấn cũng như tuyên truyền về lợi ích và quyền lợi của người LĐ khi tham gia học nghề. Nguyên nhân là do sau khi mất việc, NLĐ muốn nhanh chóng quay lại thị trường lao động đề bù đắp phần thu nhập bị mất trong quá trình tìm kiếm việc làm. Hiện tại, có khá nhiều doanh nghiệp mở mới, cơ hội việc làm lớn, thu nhập tương đối ổn định nên NLĐ dễ dàng tìm kiếm được việc làm, không muốn đi học nghề.
Luật Việc làm sửa đổi có điều chỉnh với chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động và hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nghề cho lao động. Ông đánh giá thế nào về chính sách này, có điểm mới nào tích cực không?
– Luật Việc làm (sửa đổi) với những cải tiến về hỗ trợ học nghề cho NLĐ và hỗ trợ đào tạo nghề cho doanh nghiệp thể hiện một hướng đi tích cực hơn, thiết thực hơn, gắn chính sách bảo hiểm thất nghiệp với đào tạo – duy trì việc làm.
Theo tôi, Luật Việc làm sửa đổi đã gỡ bỏ rào cản tiếp cận cho NLĐ. Cụ thể, luật bổ sung việc hỗ trợ tiền ăn, mở rộng phạm vi ngành nghề hỗ trợ, cho phép lao động học ở địa phương khác… tạo điều kiện thiết thực cho lao động tham gia học nghề.
Luật cũng hỗ trợ để doanh nghiệp kịp thời đào tạo nghề cho NLĐ trong thời điểm khó khăn, giúp giữ chân NLĐ, bảo tồn nguồn nhân lực.

Hướng đến nhóm lao động phi chính thức, thông qua việc cung cấp cơ chế giúp họ tiếp cận đào tạo nghề, chứng chỉ và an sinh xã hội, góp phần kích hoạt lực lượng lao động tiềm năng.
Tuy vậy, mức hỗ trợ học nghề còn thấp, nhiều NLĐ vẫn phải tự bỏ thêm chi phí, nhất là ở khu vực thành thị có chi phí cao. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hiện được hỗ trợ nhưng chưa nhiều, vẫn còn ít đơn vị nhận được lợi ích thực tế từ Quỹ BHTN. Theo tôi, cần thúc đẩy liên kết doanh nghiệp – cơ sở đào tạo để nâng cao chất lượng trong đào tạo song hành, đặt hàng – đào tạo theo nhu cầu thực tế, hiện vẫn còn thiếu sâu.
Trung tâm có đề xuất, kiến nghị gì mới nhằm thực hiện tốt hơn chính sách BHTN trong thời gian tới không thưa ông?
– Kiến nghị đầu tiên của trung tâm là cần xây dựng thị trường lao động linh hoạt, hiện đại và thông minh. Đồng thời phát triển hệ thống dữ liệu và dự báo thị trường lao động chủ động. Đây là nền tảng để các trung tâm chủ động kết nối cung – cầu về lao động, hỗ trợ người thất nghiệp tìm kiếm việc làm nhanh hơn, phù hợp hơn.
Ngoài ra, cũng cần tăng cường chuyển đổi số trong dịch vụ lao động. Trong đó bao gồm cả số hóa quản lý lao động, giao dịch việc làm, và liên kết với cơ sở dữ liệu dân cư nhằm minh bạch và nâng cao hiệu quả hoạt động
Thực hiện đa dạng hóa, linh hoạt hóa chính sách hỗ trợ. Ví dụ triển khai “Thẻ học nghề” cho người lao động thất nghiệp. Đây là giải pháp linh hoạt cho phép người lao động chủ động chọn nghề, thời gian và địa điểm học nghề. Đề nghị cơ quan quản lý nhà nước bổ sung chính sách phòng ngừa thất nghiệp chủ động. Không chỉ hỗ trợ khi đã thất nghiệp, mà còn có các chương trình dự báo, đào tạo trước để giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Cùng với đó, tăng cường hợp tác liên kết, xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa trung tâm với cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Đào tạo theo đặt hàng, tổ chức tư vấn hướng nghiệp gắn với nhu cầu doanh nghiệp, tạo đầu ra việc làm cho người học. Mở rộng trung tâm tư vấn và hoạt động hướng nghiệp đa cấp địa bàn, đưa dịch vụ đến vùng nông thôn, thị trường lao động phi chính thức, tăng khả năng tiếp cận cho nhóm yếu thế như vùng sâu vùng xa.
Cùng với đó, trung tâm cũng kiến nghị cơ quan quản lý, đầu tư cơ sở vật chất và năng lực cho Trung tâm. Nâng cao năng lực quản lý và thực thi chính sách, giao chỉ tiêu, tổ chức thanh – kiểm tra, tăng cường giám sát thực thi để đảm bảo chính sách đến đúng người thụ hưởng.
Tuyên truyền chính sách rộng rãi và hiệu quả, sử dụng nhiều phương tiện như truyền thanh địa phương, tờ rơi, mạng xã hội để NLĐ hiểu rõ quyền lợi và thủ tục hưởng hỗ trợ BHTN cho NLĐ và phối hợp chặt chẽ với BHXH để kiểm tra quá trình đóng – hưởng của NLĐ. Qua đó, hạn chế tình trạng trục lợi BHTN.
Điểm cuối cùng là xây dựng chính sách mở, dễ tùy biến theo hơi hướng “lấy người lao động, lấy việc làm làm trọng tâm”. Luật cần tạo khung dễ điều chỉnh để đáp ứng biến động thị trường lao động nhanh chóng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!