Thái Độ “Kẻ Sĩ” Triều vua Quang-Trung
(Nguyễn Đăng Thục)
Triều đại Quang Trung trong lịch sử Việt Nam rất ngắn ngủi, vỏn vẹn có hơn mười năm.
Đầu cha lấy làm chân con
Mười bốn năm tròn hết kiếp thì thôi!
(Sấm Trạng Trình)
Nhưng trong thời gian ngắn ngủi ấy mà chính sử đã coi như giao thời giữa hai chính thống Lê – Nguyễn, biết bao sự nghiệp hiển hách đã diễn ra cho dân tộc. Nguyễn Huệ bên góc trời Đông như Napoleon bên góc trời tây, đã đảo lộn tất cả tiêu chuẩn giá trị quốc gia xã hội: dẹp Nguyễn, dẹp Trịnh, dẹp Lê, đánh đuổi quân Trung Hoa, quân Xiêm, san bằng ranh giới phân chia Nam Bắc ngót hai trăm năm, thống nhất dân tộc, đem người áo vải lên địa vị tối cao. Quốc gia Trung Hoa phải công nhận vua Việt Nam là An Nam Quốc vương.
Áo vải cờ đào
Giúp dân dụng nước biết bao công trình.
(Ngọc Hân công chúa)
Trong cái đại cuộc tình thế đảo lộn ấy, thử hỏi giới Nho sĩ Việt Nam bấy giờ đã có thái độ như thế nào để gọi được là “kẻ sĩ” với giá trị chính nghĩa của nó?
[…] Nay thử tìm hiểu thái độ chung của giới trí thức Việt Nam bấy giờ khác giới trí thức ngày nay đã đành, nhưng xem nó có đánh dấu trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ Lê đến Nguyễn bằng một tiến bộ nào không.
Như chúng ta đều biết nhà Lê (1428), sau khi quân Minh đào thải triệt để sản phẩm văn hóa Lý Trần để thay thế bằng Nho học “Tính Lý đại toàn” của Chu Hy đời Tống, thì Nho học được đề cao lên địa vị độc tôn của cái học chính thống với tinh thần “tịch ngoại đạo” của Tống Nho, nghĩa là trở nên ý thức hệ bế quan của giới trí thức lãnh đạo quốc gia. Kết quả của cái lò hun đúc nhân tài, đào tạo sĩ khí ấy như thế nào thì nhà bác học túc nho Lê Quí Đôn cho ta thấy đại khái như sau:
“Hồi quốc sơ, sau thời nhiễu nhương bọn nhà nho thưa thớt. Những người làm đến chức Thị, Tụng như các ông Thiên Tích, Bùi Cẩm Hổ đã rực rỡ khí phách anh hào, lại sẵn nếp can đảm dám nói. Những người mến thú lâm tuyền như Lý Tử Cấu, Nguyễn Thì Trung đều một niềm giữ tiết tháo trong sạch, không chút mơ tưởng giàu sang. Đấy là một thời.
Trong khoảng đời Hồng Đức (1470-1497), mở rộng đường khoa mục thành long trọng để kén nhân tài. Học trò bèn đua nhau thiên về mặt văn hay, chỉ cốt thêu chạm lời phú, câu thơ cho đẹp, hầu mong lấy bản cao chức trọng cho sang, còn phần khí tiết khảng khái thì đã cảm thấy tan tác hủ suy. Nhưng vì đường sủng vinh rộng mở thì cách khoa lệ cũng nghiêm, ai điềm tĩnh thì tự nhiên được cất nhắc, kẻ chạy chọt cầu cạnh thì bị trách phạt. Bởi vậy người làm quan bấy giờ ít thời bon chen, mà thiên hạ còn biết quí danh nghĩa. Đấy lại là một thời nữa.
Từ đời Đoan Khánh (l505) trở về sau, lối thanh nghị suy kém quá, thói luồn cúi ngày càng thịnh dần. Kẻ quyền vị ít có người giữ được lẽ liêm khiết nhún nhường, nơi triều đình ít thấy lời dám can ngăn kích thiết. Gặp chuyện khó thì chịu hèn để khỏi bận bịu, thấy cơ nguy thì bán nước để cầu an. Cả đến bậc gọi là danh Nho cũng yên lòng nhận lấy cái vinh sủng bất nghĩa, mà vẫn còn thi ca đi lại, khoe hay khoe đẹp với nhau. Phong thái sĩ phu thật hỏng nát không bao giờ bằng thời này. Sự tệ hại của cuộc biến chuyển này không thể nói xiết được. Tìm trong khoảng trên dưới một trăm năm quốc sử này, lấy những bậc đáng gọi là cao sĩ thì chỉ có được vài người như các ông Lý Tử Cấu, thật đáng ngán cho những bậc phong tiết này ít thấy quá vậy”.
(Kiến văn tiểu lục)
Lời thẩm định trên đây có vẻ khắt khe nhưng đúng sự thật, bởi vì một khi Nho học tính lý của Tống Nho có khuynh hướng bế quan đã trở nên chính thống độc tôn của nhà nước thì nó tự giới hạn vào xã hội thực tiễn mà đoạn tuyệt với căn bản tâm linh thực nghiệm của Thiền học thời Lý Trần. Cho nên càng đi xa với truyền thống Tam giáo thời Lý Trần thì Nho học cũng mất hết sinh lực sáng tạo giá trị đạo đức bắt nguồn và lấy cứu cánh ở Thiên Tước, tức là ở thực tại siêu nhiên vũ trụ, chứ không phải chỉ hạn chế vào công lợi, vào nhân tước mà thôi. Giới hạn vào nhân tước, lấy công lợi làm tiêu chuẩn giá trị cho hành vi nhân sinh, tự nhiên người ta hết tin vào tâm linh siêu nhiên, vào giá trị thiêng liêng của con người. Bởi thế mà Nho học căn bản là một hệ thống luân lý chính trị được độc tôn ở thời Lê, đáng lẽ phải làm cho sĩ khí một ngày một tiến, lại đưa đến tình cảnh suy nhược, hèn nhát, mất cả nhân cách kẻ sĩ như Lê Quí Đôn đã phải ngán cho khí tiết của kẻ sĩ thời ông. Và Hà Sách Hiển cũng chua chát với câu thơ Vịnh Liệt phụ Đoàn:
Khả lân nhị bách dư niên quốc
Thiên lý dân di nhất phụ nhân.
Nghĩa là: Đáng thương cho một nước đã hơn hai trăm năm, tức triều nhà Lê, mà đến lúc sắp đổ chỉ còn có một người đàn bà giữ được lẽ trời và đạo người mà thôi.
Thương thay nước cũ hai trăm lẻ
Giữ vững cương thường một phụ nhân.
Và Cống Chỉnh luận về sĩ khí của thời đại cũng có bốn câu thơ cực tả như sau:
Lửa hồng từ dậy máy thành đô,
Đòi chốn lầm than thuở được thua!
Xanh biếc cành xen người ẩn dật,
Bạc xen đường vẫn khách bôn xu!
(Trong Quốc văn đời Tây Sơn của Hoàng Thúc Trâm)
Vậy thời bấy giờ khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lãnh đạo quần chúng Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, thì ngoài Bắc Hà dưới chế độ vua Lê, chúa Trịnh đã có hai khuynh hướng tư trào chi phối giới trí thức là khuynh hướng Tàng và Hành, ẩn dật hay theo thời thế. Trong khuynh hướng theo thời mà hành động thì cũng chia ra có phe phù Lê diệt Trịnh, hay là phe a dua thế mạnh để cầu lợi, cầu vinh. Cho đến khi Lê Chiêu Thống cầu viện quân Trung Hoa vào chiếm đóng đất nước như quân Tôn Sĩ Nghị, thì nhà Lê vẫn còn dư hưởng của Bình Ngô đại cáo, cho nên vua Lê vẫn tượng trưng cho chính nghĩa, khiến anh em Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà vẫn còn mượn danh nghĩa phù Lê. Đến khi Nguyễn Huệ với trận Đống Đa cản phá quân Thanh, bấy giờ mưu đồ lấy thiên hạ của ông mới đặt cho giới kẻ sĩ vấn đề thắc mắc về thái độ phải lựa chọn.
Đặng Trần Thường có tài văn học, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô Thì Nhậm thét bảo Thường: “Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác”. Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long), làm đến Binh Bộ Thượng thư. Khi thay đổi triều đại, Đặng Trần Thường vì mối tư thù cá nhân trước đó với Ngô Thì Nhậm nên đã cho tẩm thuốc độc vào roi mà đánh Ngô Thì Nhậm. Câu đối nổi tiếng của 2 ông:
Ai Công hậu, ai Khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai? (Đặng Trần Thường)
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thờí phải thế. (Ngô Thì Nhậm)
Người “Tụng Tây Hồ” hết lời ca tụng Nguyễn Huệ coi như cứu chúa, trận mưa xuống đồng khô, nhất là sau trận Đống Đa, đấy là phú của Nguyễn Huy Lượng phát biểu:
“Tới Mậu Thân (1788), từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch.
Qua Canh Tuất (1790), lại tươi cơn thời vũ, cỏ cây đều gọi đức triêm nhu”.
Người “Chiến Tụng Tây Hồ”, cố chấp vào chính nghĩa trung quân thiển cận, đẽo câu văn cho sướng miệng, thỏa chí điên cuồng bất đắc chí, như Phạm Thái thóa mạ hành vi của Tây Sơn:
“Quỉ dạ xoa quấy bụt xuống chi đây, người bách nghệ đến đâu đều khổ não. Thần hạn bạt nát ai ra đấy tá, kẻ tam nông mong chẳng được tô nhu!”.
Rồi chê bọn ra phù tá Quang Trung chỉ là bọn lợi dụng thời cơ nhất thời chớp nhoáng:
“Lớp tang thương rơi rụng tựa hoa tàn, ngầm thiên tạo cũng vui thay cảnh thú.
Cuộc Nam Bắc được chăng đường chớp giật, nghĩ thời cơ thêm ngán nỗi khuông phù!”.
Nhưng cái thái độ kẻ sĩ của Phạm Thái chống chủ nghĩa thời cơ bấy giờ để mong ủng hộ cho một chính nghĩa phù Lê mộng tưởng cũng chỉ đưa tác giả “Chiến Tụng Tây Hồ” đến chủ nghĩa cá nhân tuyệt vọng, chán đời với câu văn đẹp, chén rượu li bì:
Một tập thơ dày ngâm sang sảng.
Vài chai rượu kết ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù cả trần gian sống mãi chi?
(Tự trào)
Trong Nam Hà bấy giờ, tình thế có lẽ rõ ràng giản dị hơn, giới Nho sĩ chỉ biết công ơn chúa Nguyễn, suốt tám đời từ Gia Dụ đến Hiếu Võ đã khai thác nên cơ đồ Nam tiến vững vàng, nhất thời triều chính bị lũng đoạn để cho Tây Sơn nổi lên, chúa Hiếu Định phải bỏ chạy vào Nam, mà Cao Hoàng phải bôn ba mưu toan phục quốc. Vậy Nho sĩ đất Thuận Hóa chỉ có thái độ “loạn bang bất cư”, “nguy bang bất nhập” như Khổng Tử đã dạy, mà kéo nhau đi ở ẩn. Đấy là xử sĩ Hoàng Quang với Võ Trường Toản đã đại biểu cho thái độ kẻ sĩ, lạc quan chờ thời.
Tớ nay, sĩ ở Đông Tân, ngụ miền Nam bạn.
Than rằng đã lánh gian truân, rủi lại gặp kỳ phản hoán.
Số là thấy “thiên hạ hoại loạn dĩ cư”, lửa hừng thảm lại thêm sầu.
Chửa gặp kỳ “Thánh nhân cơ hội khả vi”, mua rượu đạm mầu cứu hạn.
Nói không cùng muôn việc thuở xua, thương phải vài lời tự thán.
Song e chuyện cũ đã tra, chép lại sách xua để án.
Lời rằng: “Đại hàn chi hậu tất hữu dương xuân,
Đại loạn chi hậu tất hữu trí trị!”.
Vậy có đoán rằng:
Khỉ bồng con ngồi khóc,
Gà vỡ tổ liền bay,
Chó vẫy đuôi mùng chủ,
Lợn ăn no ngủ ngày.
(Hoài Nam ca khúc)
Ở đây thấy rõ kẻ sĩ Nam Hà vẫn lạc quan, không những tin tưởng vào cái định luật dịch biến tuần hoàn, đi rồi tất lại, mà còn vì vẫn tin tiên tổ Miếu đường như lời văn tế sau của ông:
Kính mặt đức Tiên vương
Non Lam trổ ngọc, nước Việt tuôn vàng.
Thân cùng Trịnh trong điều mạch nước,
Tôn họ Lê trên chánh ngôi Vương.
Thệ đều ái ưu, Hồ Việt tưởng một nhà lạc tiệc.
Tự vì ai phấn khích, Lưu Hạng nên trăm trận chiến trường.
Hai chốn Bắc Nam mới cứ, sáu năm Thanh Nghệ lại sang.
Thương sinh dân gối tuyết nằm sương, ngoài mới triệu về chư tướng.
Thủ Bố Chánh ngăn thành đắp lũy, trong bèn an trị bốn phương.
Tám đời Thánh dõi truyền đức giáo.
Hai trăm năm sữa trị triều cương.
Nại từ ấu tự lên ngôi, giường Thang rồi đã đành vua Giáp.
Thêm lại quyền thần phụ chánh, tộ Nguyễn suy căm giận họ Trương.
Ngoài đã mọt sâu lê thứ, trong thêm cá thịt họ hàng,
Ông bèn dậy Tây Sơn, thế đã khiến ba phân chân vạc.
Hùm lại gầm ải Bắc, lòng bỗng tàn sắc miếu khói hương.
Thế cheo leo Nguyễn tự nửa tơ, linh biết chăng ôi liệt Thánh?
Rầy sui khiến Hạ đồ một mối, kẻo còn hố với Thiếu Khang.
Ngõ một thuở lại vầy cơ hội, đặng muôn năm cho sáng Miếu đường.
Nay cáo.
(Hoài Nam ca khúc)
Cái tín ngưỡng Tổ tiên ấy đã dẫn đến Nho học tâm linh khai phóng đất Gia Định mà Võ Trường Toản là đại biểu. “Học sách Đại học đến quên hết sách không còn một chữ nào nữa hết” thì mới đạt được cái đạo Đại học, như ông đã tuyên bố và dạy cho đệ tử:
“Sách Đại học một ngàn bảy trăm chữ, tan ra vô số việc, thu lại chỉ hai trăm chữ, lại thu nữa chỉ một chữ, lại thu hẳn lại, một chữ cũng không”.
(Văn bia Võ Trường Toản của Phan Thanh Giản)
Bởi thế nên họ Võ đã đạt cái lý: “Trong biến đổi tìm đến chỗ không biến đổi” như tiên sinh đã tuyên bố: “Cho hay dời đổi ấy là thường, mới biết thảo ngay là nghĩa cả!”. (Hoài Cổ phú)
Xem thế có thể biết đại khái thái độ nhân sĩ Nam Hà thời ấy rất rõ rệt, không khó khăn phức tạp với chính nghĩa như nhân sĩ Bắc Hà, nào vua Lê mời quân Trung Hoa vào, nào Nguyễn Huệ đánh đuổi quân Thanh, nào chúa Trịnh, chúa Nguyễn, thật là rối ren khó xử. Trong cái “thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu” ấy, chúng ta đã thấy Nho sĩ Trần Công Xán tuẫn tiết để phù Lê, Lý Trần Quán tự chôn sống vì hối hận vô tình phản chúa (Trịnh Tông). Nay thử ôn lại thái độ của một bậc Nho sĩ danh tiếng như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, để thấy cái triết lý sống Việt Nam khó thực hiện là nhường nào.
La Sơn, tên húy là Nguyễn Thiếp, người làng Nguyệt Tạo, huyện La Sơn, lúc trẻ thi Hương đỗ thủ khoa, làm Tri huyện Thanh Giang. Khoảng giữa đời Cảnh Hưng từ quan về ở ẩn tại thành Lục Niên núi Thiên Nhẫn, chuyên nghiên cứu Lý học, người đương thời gọi là La Sơn tiên sinh. “Thơ của ông tao nhã thanh thoát, lý thú thung dưng, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân ngâm khích không thể sánh được.” (Theo Văn tịch chí – Phan Huy Chú)
Nho học của La Sơn tiên sinh căn cứ vào Tính Lý của Chu Hy, nhưng lại ngã về tâm linh thực hiện mà bài bác phản đối khuynh hướng bè phái đảng tranh đương thời, bởi thế mà ông sớm cáo bệnh về ở ẩn, như ta thấy biểu lộ ở bài thơ Độc tính Lý Tứ Thư đại toàn sau đây:
Thử lý tòng lai cụ thử thân,
Ngô Nho ưu học bất ưu thần,
Nghĩa tồn, đỉnh hoạch như vô vật,
Đạo khuất, lâm tuyền dã khả nhân,
Toản lý, cơ quan thiên cổ bệnh,
Dục nghi, phong vị tứ thời xuân,
Khu khu trở đạt hà tu kế,
Quân tử thành danh chỉ tại nhân.
(Thi cáo)
Tạm dịch:
Lý ấy đủ trong mỗi cá nhân.
Nhà Nho lo học chẳng lo bần;
Nghĩa còn, hình phạt là đồ bỏ,
Đạo mất, tìm vui với núi non.
Biển lận xua nay đời tranh chấp,
Riêng ta tắm suối bốn mùa xuân.
Loay hoay cùng đạt lo chi nữa,
Quân tử nên người một đạo nhân.
Đấy là thái độ của nhà Nho quân tử. Nhưng muốn làm một nhà Nho quân tử với đạo Nhân, đâu phải là dễ dàng, gặp thời loạn mà đi ẩn là được. Nho sĩ Nguyễn Thiếp đang sống dưới chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, mặc dầu là thời loạn, được làm vua thua làm giặc, nhưng đeo vai thân sĩ lại muốn làm một quân tử Nho, không phải tiểu nhân Nho, lại càng phải trung thành với tôn chỉ “chính danh định phận, ngôn thuận danh chính”. Đấy là cả một vấn đề khó xử cho Nguyễn Thiếp lúc bấy giờ. Lấy thành Lục Niên, nơi Lê Thái khởi nghĩa làm nơi ẩn dật, chắc hẳn tiên sinh đã có ngụ ý lấy nhà Lê làm tiêu biểu cho chính nghĩa dân tộc, như Lê Thúc Thông đã viết:
Sách Địa dư có câu:
Lục niên cung kiếm anh hùng sự
Bán chẩm yên hà dật khách tình.
Nghĩa là:
Sáu năm, tục thành này gọi là Lục Niên, việc cung kiếm là việc của người anh hùng Lê Lợi.
Nửa gối khói mây là tình cảnh của nhà ẩn dật.
Lấy thành Lục Niên với Nguyễn Xử Sĩ mà đối nhau, thời biết thành Lục Niên, Nguyễn Xử Sĩ hai sự tích ấy đều là tiêu biểu cho cõi Hồng Lam xin người thượng lưu xã hội, người hạ lưu xã hội trông lên thành Lục Niên nên có lòng tư tưởng giang sơn, trông lên miếu Nguyễn Xử Sĩ nên có lòng phù trì danh giáo.
(Nam sử liệt truyện khảo cứu)
Như thế thì Nho sĩ Nguyễn Thiếp đã phải đối phó với các thế lực đương thời như thế nào để giữ cái gọi là chính nghĩa dân tộc thời bấy giờ, nào là vua Lê, chúa Trịnh, nào là Quang Trung Nguyễn Huệ, nào là vua Gia Long.
Vào năm 1780, chúa Tĩnh vương Trịnh Sâm có ý thay thế vua Lê mời Tiên sinh Nguyễn Thiếp ra kinh để dùng. Rồi thấy Tiên sinh lại về núi, Hoàng Xuân Hãn trong tác phẩm La Sơn phu tử, Minh Tân xuất bản có cho biết: “Đọc thơ những người ở Thăng Long tặng Cụ thì biết rằng chúa muốn trọng dụng cụ, nhưng cụ từ chối”.
Thơ của Bùi Bất Trực:
Bốn bể ngẩng trong Thiên Nhận đỉnh
Chính trùng trọng vọng Lục Niên quan.
Nhưng đối với Nguyễn Huệ tự lúc Nguyên Súy đến lúc làm vua Quang Trung ba phen cho thư đưa lễ vật đến mời, cử chỉ thực nhún nhường kính hiền mộ sĩ, mà Nguyễn Thiếp cũng không ra, can đảm từ chối. Cho đến khi Nguyễn Huệ đến tận Nghệ An, mới ra hội kiến, tiên sinh mới chịu ra, nhưng trong lời đối đáp vẫn một mực giữ được chính nghĩa. Sách Gia Phả chép rằng:
Huệ tới châu ta, dừng ở núi Nghĩa Liệt, dương uy vũ ra oai ép cụ phải ra mắt Huệ.
Cụ tới Huệ trách rằng: “Đã lâu nghe đại danh, ba lần cho tới mời, tiên sinh không thèm ra.
Tiên sinh cho quả nhân là thằng giặc nhỏ, không đủ làm kẻ anh hùng trong thiên hạ chăng?”
Cụ trả lời: “Hơn hai trăm năm nay, quyền về tay họ Trịnh hung bạo. Vương mới đưa quân ra một lần mà dứt được lập lại nhà Lê. Với danh nghĩa chính thì anh hùng ai lại chẳng theo? Nếu giả tiếng nhân nghĩa, nói dối tôn vua để lấy tiếng thì lại hóa ra một kẻ gian hùng.”
Huệ bèn đổi sắc mặt, ngồi dịch ra mà tiếp đãi rất trân trọng. Cụ ngồi nói chuyện hồi lâu mới về.
(Theo sách của Hoàng Xuân Hãn đã dẫn trên)
Đấy là thái độ của Nho sĩ dám nói vậy.
Khi đem quân ra đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ lại gặp Nguyễn Thiếp ở Nghệ An, hỏi về sách lược. Tiên sinh nói:
“Người Thanh ở xa tới mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ ra sao. Vả nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một phút thì khó lòng mà được nó”.
Huệ mừng lắm trả lời: “Ông nói chính hợp ý tôi.”
(Theo Hoàng Lê nhất thống chí)
Đến đây theo con mắt của Nguyễn Thiếp, vua Lê đã mất chính nghĩa vì cầu viện quân nhà Thanh dày xéo lên đất nước đặng bảo vệ ngôi vị của mình. Bởi thế mà Nho sĩ quân tử Nguyễn Thiếp không ngần ngại ra giúp chính nghĩa của Nguyễn Huệ để đánh đuổi kê xâm lăng ngoại lai vậy. Và để chứng minh cái chính nghĩa vì dân tộc của tiên sinh, Quang Trung tuy trả lại tước lộc của vua nhưng vẫn thẳng thắn giúp vua bằng những lời khuyên vương đạo: “Nào vua nên một lòng tu đức, ấy là gốc của vạn sự, nào là dân thường không nhớ chỉ mến kẻ có đức nhân, lòng người qui về là bởi mệnh trời; nào là phép học ‘ngọc không chuốt không thành đồ, người không học không biết đạo’… Người ta tranh đua học tập từ chương, cầu công lợi mà quên mất đạo chính trị tam cương ngũ thường. Chúa tầm thường, tôi nịnh hót, quốc phá gia vong”.
Như thế là đủ tỏ Nguyễn Thiếp chưa hẳn nhận Quang Trung là chính nghĩa, vì mặc dầu phương ngôn Việt có câu “được làm vua thua làm giặc”, cũng như chủ nghĩa duy vật ngày nay tin rằng võ lực là mẹ lịch sử, những đối với nhà Nho Việt xưa nay cũng như đối với tinh thần văn hóa Đông phương, một võ công không đủ lập nên chính nghĩa. Cũng may Nguyễn Huệ, vua Quang Trung là người biết phục thiện, cho nên Nguyễn Thiếp đã nhận chức Viện trưởng Sùng Chính viện để thực hiện chương trình cải cách giáo dục đương thời.
Nhưng Nguyễn Huệ sớm băng hà, Nguyễn Thiếp lại một phen đem tính mạng để thử thách với chính nghĩa trong một thời cuộc rối ren, đại thần giết nhau, quân dân nghi hoặc. Nhiều tướng giỏi bỏ Lê Chất hàng chúa Nguyễn, Lê Văn Thành tướng Tây Sơn Ở Qui Nhơn cũng hàng. Kẻ sĩ Nguyễn Thiếp trả lại chức Viện trưởg Sùng Chính đề về núi. Nhưng vua nối ngôi Quang Trung là Quang Toản ép vào Phú Xuân để vấn kế. Lúc này vua nhỏ tuổi, triều thần đối với Tiên sinh ngoài mặt dùng lễ mà bề trong thì uy hiếp bằng võ lực, cho nên mới thấy có sách chép:
“Con Huệ là Trát lại sai Trấn quan đưa lễ và một ngàn lính lên núi ép đón”.
(Dã sử nhật ký, theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn)
Nhưng trước mặt nhà vua Quang Toản, được hỏi về quốc sự, tiên sinh cũng thẳng thắn dám nói sự thật: “Không thể làm được.”
Lại hỏi: “Cụ có dạy gì không?”
Đáp: “Dạy ai theo.”
Quang Toàn nói: “Tôi giao ấn kiếm, ai dám không theo.”
Cụ hỏi: “Nếu quân vương không nghe thì sao?”.
Thế rồi chúa Nguyễn Ánh đánh vào Phú Xuân năm 1801, Quang Toản và tướng tá bỏ chạy ra Bắc. Nguyễn Thiếp đang bị giữ ở Phú Xuân, vẫn giữ một thái độ điềm nhiên của kẻ sĩ “Phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”, nghĩa là: giàu sang không làm cho xiêu lòng thèm muốn, sức mạnh vũ lực không có thể làm khuất phục (Mạnh Tử).
Chúa Nguyễn Ánh vào Phú Xuân rồi, Tiên sinh ngồi đứng như thường, cư xử thản nhiên. Lính vệ sĩ của chúa Nguyễn về báo có người hình trạng như thế. Vua Thế Tổ bèn triệu cụ tới, tiếp đãi rất có lễ, hỏi: ‘Ngụy Tây Sơn mời tiên sinh làm thầy, vậy tiên sinh dạy nó ra sao?’
Cụ trả lời: ‘Có tám điều trong sách Đại học, có chín đường trong sách Trung dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được.’
Vua cho câu nói ấy hay, trọng đãi cụ như khách, cụ ở lại mười ngày, bèn xin về.
(Theo sách La Sơn phu tử đã dẫn)
Những sự kiện trên đây có thật hay không, khó mà biết. Duy còn tờ chỉ mà ông Hoàng Xuân Hãn đã dịch như sau:
“Chỉ cho La Sơn dật sĩ Nguyễn Thiếp:
Nghe nói khanh tuổi cao đức thịnh, xứng với lòng người ta trông mong. Trước bị Ngụy triều ép gọi đến, giữ lại ở kinh lâu ngày. Nay, sau lúc đại binh tiếp tới Phú Xuân, khanh tới cửa quân giãi bày thành thật về xin trở về nhà.
Ta nghĩ rằng kẻ hiền nên kính trọng, kẻ giả lên để yên, sai hầu đưa quân lính tiễn về đến đầu giới hạn Hoành Sơn.
Sau lúc về núi, khanh nên chăm việc rèn đúc kẻ hậu tiến để giúp đời thịnh, để không phụ ý Trẫm rất tôn hiền.”
Theo đấy thì Nguyễn Thiếp trải qua mấy triều trái nghịch tương tranh, nào thế Chiến quốc, nào thế Xuân thu, vẫn giữ được trọn vẹn thái độ của bậc hiền sĩ, quả là một nhà Nho có thật đức vậy. Sống vào thời hỗn loạn, thế lực lên xuống bất thường chớp nhoáng, kẻ phù Lê cũng bị giết như Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ phù Quang Trung cũng bị Nguyễn Gia Long giết, như Ngô Thời Nhậm, thậm chí kẻ phù nhà Nguyễn lại nhà Nguyễn giết như Đặng Trần Trường, thế mà chỉ có Nguyễn Thiếp giữ được toàn vẹn tính mạng lẫn thanh danh. Đấy thật là một tấm gương chính nghĩa Việt Nam cận đại. Chẳng biết thời nay người ta hiểu thế nào là chính nghĩa, và người ta đã sống theo chính Nghĩa như thế nào ?