Tên của Bà Trưng là gì?

Thông tin về Bà Trưng là lấy ra từ Hậu Hán Thư của Phạm Diệp. Hậu Hán Thư được viết vào thế kỷ thứ 5. Nó tổng hợp các sự kiện từ năm 25 cho tới năm 220.

Sự kiện Bà Trưng xưng vua là vào năm 40. Tên gọi Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là tên gọi các con tự Hán cổ lấy ra từ Hậu Hán Thư.

徵貳 Trưng Nhị 徵側 Trưng Trắc

徵 Trưng

彳bước chân
山 sơn, núi
一 nhất, một
土 thổ, đất
攵 phộc (gõ nhẹ)

側 Trắc: người phép tắc
人 nhân, người
貝 Bối vỏ sò, đồ quý
刂 đao, gươm
貝刂 quy tắc

貳 Nhị (Nôm: nhẹ, nhi)
貝弋二
二弋 Chữ “nhị” 二 cổ

徵 彳山 一 土 攵

徵 Trưng (trưng — trưng thu, trưng dụng, trưng cầu… tập hợp lại, hợp thành) phía trên là đỉnh núi cao, phía dưới là đất bằng. Bước chân trái gọi là sách 彳, bước chân phải gọi là xúc 亍, hợp 彳 với 亍 lại thành ra chữ hành 行. 攵 phộc (gõ , tác động). Bao quanh 一 nhất, một. Tổng hợp lại 徵 ngụ ý nói tới chỉ huy quân du khích vùng núi đất Sóc Sơn.

側 Trắc là người định ra các quy tắc, tức nắm toàn quyền hành chỉ huy (Thủ Lĩnh). 貳 Nhị là người có quyền lực thứ hai.

徵貳 Trưng Nhị 徵側 Trưng Trắc đều là các con tự hội ý, tức là suy diễn, mà không phải là hội âm, tức âm thanh tên người. Như thế Phạm Diệp chỉ nói tới hai vị thủ lĩnh ở vùng núi đất Sóc Sơn, và không có nói tới tên của các vị thủ lĩnh ấy.

Hiển nhiên tên của các thủ lĩnh là tên tiếng Việt. Âm này không chắc đã có trong các con Hán tự. Mà hơn thế, dẫu có thì sau gần 500 năm cũng không còn ai ở nhà Hán phát âm tên ấy nữa.

Sự kiện xưng Vua của dân tộc Việt là một sự kiện rất lớn. Cuộc chiến chống ngoại xâm là rất lớn. Hiển nhiên vị Vua ấy phải được người dân nhắc tới. Cái tên nữ nào thuần Việt cổ nhất có trong ký ức người Việt? Vậy phải chăng tên của vị Vua đầu tiên của dân tộc ta chính là Nàng Bân?

Rét nàng Bân có từ bao giờ?

Hậu Hán Thư có viết Mã Viện dùng 20 nghìn quân tiến đánh Bà Trưng. Mã Viện mất 1 năm xẻ núi làm hơn 1 van dăm đường, khoảng hơn 500km, ven biển để tiến quân.

Xét toàn bộ cuộc đời binh nghiệp của Mã Viện thì trận đánh này là có quy mô lớn nhất, cả về số lượng quân và công việc làm đường viễn chinh. Như thế lực lượng quân sự của Bà Trưng là rất mạnh. Ước tính theo mật độ dân cư nông nghiệp tự cung tự cấp là 1 người trên 1 heta thì vào đầu Công Nguyên, đồng bằng Bắc Bộ mới bồi được 2/3 so với hiện nay, có khoảng 500 nghìn dân và khoảng 250 nghìn là ở ven chân núi và rừng. Con số 750 nghìn dân cũng được Hậu Hán Thư nói tới. Như vậy thời Bà Trưng có khoảng 100 nghìn hộ. Từ đây cho thấy Mã Viện dùng tới 20 nghìn quân thì Bà Trưng là sự kiện rất lớn.

Hậu Hán Thư cũng viết Mã Viện tiến đánh vào tháng 4 mùa xuân. Điều này là hợp lý vì Mã Viện phải tải lương cho 20 nghìn quân ăn bằng thuyền buồm. Và vì vậy phải lợi dụng sức gió thổi mạnh. Quả đúng là trong vào cuối tháng 3 đầu tháng 4 ở Bắc Bộ có gió mùa Đông Bắc. Tốc độ gió lạnh từ phương Bắc thổi về này rất mạnh và bị lực Coriolis bẻ cong hướng thổi khi đi vào vùng vịnh Hạ Long mà thành gió Đông Bắc. Chính gió Đông Bắc đã đẩy thuyền buồm chở lương vào sâu tới vùng Sóc Sơn chân núi Tam Đảo. Đường tiến quân của Mã Viện là đi men theo đường chở lương thực. Các khu vực đóng quân về sau này thành các khu dân cư lớn. Vậy đường tiến quân của Mã Viện là đường quốc lộ QL18 đi từ Móng Cái, men theo bờ biển đi qua Chí Linh, Bắc Ninh. Nó cũng chính là đường bờ biển có từ 6000 năm về trước. Các con sông xưa tương đối rộng và chảy sát con đường QL18 này.

Hậu Hán Thư có viết về việc Mã Viện bị mưa lớn ngập lụt. Vậy đó chính là mưa rào mùa hè. Điều này cho thấy sự kiện Mã Viện tiến quân vào đợt gió mùa Đông Bắc cuối cùng trong năm là chính xác. Đợt gió này là gió Nàng Bân. Gió nàng Bân chỉ có ở Bắc Bộ, tức tên gọi và sự tích gió nàng Bân là thuần Việt. Cái tên gọi Bà Trưng là dịch ra từ chữ Hán Cổ của Hậu Hán Thư. Vậy phải chăng sự tích gió nàng Bân gắn liền với sự kiện Mã Viện tiến đánh? Nói cách khác tên thật của bà Trưng là Nàng Bân?

Phải là một cái tên thuần Việt!

Vào đầu Công Nguyên ở Bắc Bộ vẫn theo chế độ Mẫu Hệ. Tức chuyện rét Nàng Bân không thể sớm hơn. Câu chuyện kể về một người con gái cố công may tấm áo cho chồng. May mãi xong thì vào hè, và Ngọc Hoàng đã lệnh cho trời đất phù hộ để Nàng Bân thực hiện được ước vọng của mình.

Ở nông thôn chả có ai đan áo len cả. Vậy đây là câu truyện do hư cấu mà thành. Chuyện truyền khẩu dân gian kết nối các sự kiện, sự kiện bị đàn áp, bị tước bỏ văn hoá và cái lạnh khi đã vào Hè để truyền tải một thông điệp.

Chuyện kể rằng

“Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Vương Mẫu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình.

Chồng nàng Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Nhưng nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, se được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được đôi cổ tay.

Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng Hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm. Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo.”

Hàng năm vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu: “Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân” là vì thế.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *