Tác giả: Carl Hamilton
———-
Tạm khoan nói về chiến tranh, bây giờ tôi muốn bàn luận về một chủ đề vô cùng quan trọng và thú vị. Đó chính là công nghiệp hóa. Nếu nghĩ công nghiệp hóa là một thời kỳ thuộc về lịch sử thì bạn đúng rồi đó, với điều kiện bạn đang nghĩ đến Tây Âu. Công nghiệp hóa là quá trình rất gian nan tạo dựng nên một quốc gia công nghiệp thay vì một quốc gia phụ thuộc vào đào múc xúc bán tài nguyên hay nông nghiệp. Nếu là một tín đồ của thuyết kinh tế tự do, bạn cần phải chấp nhận thực tế rằng một nước giàu phải là một nước phát triển, và phát triển ở đây có nghĩa là công nghiệp hóa. Mặc dù vậy, 40 năm qua đã chứng kiến sự thay đổi to lớn trong cách thức tiến hành điều đó.
Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI)
Học thuyết truyền thống về công nghiệp hóa cho rằng quá trình này nên diễn ra với mục đích khiến một đất nước cuối cùng có thể sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp mà nó cần và mong muốn. Điều này được gọi là công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Theo học thuyết này, quốc gia đó phải phát triển tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng nhằm thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển theo.
Đây là cách thức được hầu hết các quốc gia phương Tây áp dụng. Với điều kiện một quốc gia được hưởng nền hòa bình và không bị các nước đế quốc lớn hơn tấn công, quá trình này ít nhiều sẽ diễn ra tự nhiên cùng lúc với sự phát triển của công nghệ trong hơn vài thế kỷ. Đan Mạch chỉ hoàn thành công nghiệp hóa vào những năm 1960s. Trong khi đó, quá trình công nghiệp hóa của Liên Xô diễn ra từ 1922 đến 1940. Cho đến nay nó vẫn là quá trình công nghiệp hóa thần tốc nhất trong lịch sử.
Xét đến Việt Nam, quốc gia này cũng từng cố thực hiện điều tương tự, nhưng họ vấp phải vài vấn đề. Trước tiên, họ không sở hữu tất cả các nguồn tài nguyên cần thiết, còn thế giới lại không hề sẵn lòng cung cấp những thứ đó cho họ. Thứ hai, mặc dù là quốc gia xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam vẫn tồn tại tư tưởng bè phái sau chiến tranh. Sau cùng, đối tác thương mại hợp lý nhất của họ, Trung Quốc, lại tỏ ra thù địch. Hệ quả là quá trình công nghiệp hóa diễn ra thiếu hiệu quả và Việt Nam đã không thể đi theo con đường của Liên Xô. Do đó, Việt Nam chọn con đường thỏa hiệp: họ sẽ gia nhập thị trường thế giới và áp dụng nền kinh tế thị trường. Quá trình này được gọi là Đổi Mới, sau đây tôi sẽ không nói nhiều về nó nữa.
Vì quyết định trở thành nền kinh tế thị trường, cũng như mở cửa giao thương với tất cả các bên, bao gồm cả Mỹ, Việt Nam tìm cách tham gia vào thị trường quốc tế và các thể chế của nó, với mục đích nhận được các khoản vay từ IMF và World Bank để phát triển nền công nghiệp quốc nội. Nhưng những thể chế này lại có những dự định khác.
Công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu (EOI)
IMF chỉ cách để Việt Nam công nghiệp hóa. Họ bảo rằng để hội nhập với thị trường toàn cầu, Việt Nam phải thực hiện một vài việc nhất định. Trước tiên, Việt Nam phải chấp nhận cho IMF quyền sửa đổi hoàn toàn các đạo luật tài chính của họ trong cái được gọi là “chương trình tái cơ cấu” (SAP). SAP gồm ba phần chính yếu. Thứ nhất, nền kinh tế phải được tư nhân hóa, có nghĩa các ngành công nghiệp thuộc sở hữu chính phủ càng ít cạnh tranh với khối tư nhân càng tốt. Điều này bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ công ích, thứ được quốc hữu hóa ở hầu hết các nước phương Tây. Thứ hai, nó gồm có chương trình thắt lưng buộc bụng. IMF tuyên bố dứt khóa rằng sẽ không có khoản hỗ trợ nào trừ khi chính phủ cắt giảm chi tiêu công. Cuối cùng, chính sách tài chính sẽ do IMF quyết định, nghĩa là quá trình phát triển được tài trợ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Kết quả là quá trình công nghiệp hóa được định hướng đến nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài (chủ yếu là phương Tây), thay vì nhu cầu của người dân trong nước. Họ cho rằng việc một đất nước tập trung sản xuất những sản phẩm mà nó sở hữu lợi thế so sánh trên thế giới sẽ giúp nó có thể sử dụng số tiền thặng dư để tiến hành công cuộc đầu tư nâng cấp.
Chắc bạn đoán được lợi thế so sánh của Việt Nam theo đánh giá của IMF là gì chứ? Chính là mức lương thấp. Hãy để các công ty nước ngoài khai thác lực lượng lao động, và rồi Việt Nam sẽ trở thành một đất nước tốt hơn.
Theo lẽ thường, mọi việc bắt đầu ở một ngành công nghiệp thâm dụng lao động chân tay, rồi sau đó sử dụng lợi nhuận đầu tư nâng cấp cho lực lượng lao động để tiến vào ngành công nghiệp ở cấp cao hơn. Việt Nam đã chọn ngành công nghiệp dệt may như bao nước khác.
Ngạc nhiên thay, mọi việc không như mong muốn
Trong khoảng từ 1992 đến 2007, Việt Nam thu hút được rất ít FDI. Toàn bộ nền kinh tế đã được họ điều chỉnh hướng đến công cuộc này, nhưng mọi việc diễn ra không như ý muốn. Tại sao vậy? Bởi Trung Quốc, Indonesia và Bangladesh cũng có lao động giá rẻ, mà số lượng còn lớn hơn Việt Nam nhiều lần nữa. Thẳng thắn mà nói, nhu cầu của toàn thế giới đối với các công xưởng bóc lột công nhân đã được đáp ứng đủ rồi. Nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng, nhưng quá trình tư nhân hóa do IMF yêu cầu dẫn đến gia tăng bất bình đẳng, và sự phát triển chủ yếu dồn hết về Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và cả Đà Nẵng nữa (nằm sát Huế cho mấy thím cuồng lịch sử).
Khối doanh nghiệp nhà nước giúp Việt Nam trụ vững trong giai đoạn khó khăn này, khi FDI khan hiếm và các khoản vay không được IMF phát hành. Tuy nhiên, sau khi tiến hành công nghiệp hóa, Trung Quốc tiến hành cắt giảm các công đoạn dệt may ở cấp thấp nhất. Nó có nghĩa nhu cầu lao động dệt may giá rẻ không tăng lên, và do đó Việt Nam bắt đầu được để ý. Nhưng xét ra thì xuất khẩu từ Việt Nam vẫn không đáng đồng tiền bát gạo cho lắm. IMF từ chối cho các công ty thuộc sở hữu nhà nước vay nợ nước ngoài, trong khi giới doanh nghiệp tư nhân không muốn đầu tư vào một nước không phải là thành viên WTO, bởi họ phải chịu thêm các mức thuế quan bổ sung lên hàng hóa đi kèm. Vậy nên Việt Nam đã phải gia nhập WTO.
Khó khăn vẫn chưa dừng lại ở đó đâu. WTO không chấp nhận việc chính phủ Việt Nam gần như kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp dệt may, và yêu cầu nó phải được tư nhân hóa. Hơn 120 xí nghiệp dệt may được chuyển đổi thành công ty cổ phần, khiến việc sử dụng chúng cho mục đích thương mại phần nào đó bị loại bỏ.
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO. Nó đã chứng kiến sự tăng trưởng của ngành dệt may, nhưng lại không thể thu thuế và không được sử dụng lợi nhuận của ngành đó. Một lần nữa, Việt Nam bị ngăn cản trong việc thụ hưởng thành quả từ quá trình nâng cấp công nghiệp.
Nhưng người thắng sau cùng lại chính là Việt Nam
Nhiều quốc gia đã bị mắc kẹt ở cái bẫy được gọi là chính sách ngoại thương tân tự do, thứ tạo điều kiện cho các tập đoàn bóc lột tài nguyên hoặc lao động giá rẻ của họ. Nhưng Việt Nam lại chuẩn bị một kế hoạch khác biệt. Họ đã làm gì để ứng phó với việc các công ty quốc doanh được tư nhân hóa và biến thành công ty cổ phần? Thật đơn giản, họ tiến hành mua lại cổ phiếu thông qua các các công ty holding khác nhau. Quan trọng nhất trong số đó phải kể đến Vinatex.
Trên thực tế, Vinatex sở hữu khoảng 90 công ty cổ phần và liên doanh dệt may ở Việt Nam. Nếu chỉ quan sát Việt Nam không thôi, bạn sẽ nghĩ đây là một thị trường cạnh tranh cao với hàng tá các công ty nước ngoài và lao động giá rẻ. Tuy nhiên, phần lớn toàn bộ ngành công nghiệp này lại được gián tiếp sở hữu bởi chính phủ Việt Nam. Điều này cho phép họ có thể sử dụng khoản tiền tư nhân về mặt lý thuyết, nhưng thực ra lại thuộc sở hữu công này để xây dựng đất nước.
Vinatex và các nhà máy dệt may thuộc nhà nước khác đã giúp Việt Nam nâng cấp thành công ngành dệt may của họ, từ công xưởng gia công rẻ mạt lên thành nhà máy kéo sợi, sản xuất vải sợi tổng hợp và dệt bông. Đây đều là những ngành công nghiệp tân tiến hơn nhiều cho người lao động. Bản đồ dưới đây chỉ ra những khu vực của ngành được Vinatex nâng cấp. Khoảng 30% số nhà máy của Vinatex hiện nằm ở phân đoạn cao hơn trong sản xuất. Trong 10 năm mà làm được thế thì họ cũng khá đó chứ (số liệu từ 2017).
Thành công trong dệt may giúp Việt Nam bước chân vào ngành công nghiệp điện tử béo bở hơn nhiều. Điện tử hiện đã đóng vai trò quan trọng hơn dệt may, khi chiếm đến 140 tỷ trong tổng kim ngạch xuất khẩu 300 tỷ đô của Việt Nam. Nhờ khôn khéo tận dụng các doanh nghiệp công-tư, Việt Nam đã thoát khỏi vòng xoáy bóc lột mà Sri Lanka và Bangladesh vẫn đang bị mắc kẹt trong đó.
Công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu không đem lại lợi ích cho những nước thực hiện nó. Lợi ích đó thuộc về các bên muốn gia tăng sản lượng những loại hàng hóa chúng ta cần ở phương Tây, qua đó kéo giảm chi phí xuống. Nó có lợi cho bên phân phối, nhưng với bên sản xuất thì không phải màu hường cho lắm.
Nói cho bạn biết này, nếu bạn mua một cái áo Ralph Laurent thì khả năng cao là nó được sản xuất tại một trong số chín nhà máy Vinatex ở Đà Nẵng có hợp đồng với Ralph Laurent đấy, kể cả khi nhãn hàng hóa được dán ở một nước khác. Về cơ bản, việc mặc Ralph Laurent hay cả rổ các thương hiệu khác đồng nghĩa với việc bạn đang gián tiếp ủng hộ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu muốn đi xa hơn, bạn có thể mua chúng trực tiếp tại Việt Nam. Chất lượng tương đương nhau, nhưng 100% lợi nhuận khi đó sẽ thuộc về Việt Nam. Trở ngại cuối cùng dành cho Việt Nam trong ngành dệt may là tìm cách vượt qua sự chi phối của các thương hiệu và nhà phân phối. Một khi Việt Nam thiết lập thành công thương hiệu và hệ thống phân phối của riêng họ, lợi nhuận thu được từ dệt may của họ sẽ lớn hơn rất nhiều.
———
Vào năm 2017, tôi từng tiến hành nghiên cứu quá trình nâng cấp công nghiệp của Việt Nam cùng hai nhà nghiên cứu khác tại đại học Roskilde. Mục tiêu của chúng tôi là tìm hiểu tác động của chính sách thương mại tân tự do với Việt Nam. Thay vào đó, chúng tôi lại tìm thấy cách thức Vinatex sử dụng để né khỏi hầu hết các quy định của WTO và IMF. Hy vọng điều này thú vị với các bạn.
Theo: Trần Minh Ngọc
